04/02/2024
04/02/2024
Tây Bắc – mảnh hồn thiêng của núi sông, miền đất hứa nâng giấc cho biết bao câu bút gạo cội. Nếu Nguyễn Tuân đến đây vì" thứ vàng mười đã qua thử lửa "qua tuỳ bút" Người lái đò sông Đà "thì Tô Hoài lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập" Truyện Tây Bắc "mà linh hồn của nó là truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ ". Thưởng thức từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng với" nàng dâu gạt nợ "của nhà thống lí Pá Tra – Mị. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã miêu tả tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ, đồng thời ta thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài gửi gắm:
" Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo [..] A Phủ nói: "Đi với tôi". Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. "
" Vợ chồng A Phủ " được sáng tác năm 1952, in trong tập" Truyện Tây Bắc "cùng" Mường Giơn "và" Cứu đất cứu Mường ". Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc của nhà văn. Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng.
Đoạn trích trên nằm ở phần đầu tác phẩm, khắc họa tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ, đồng thời ta thấy được tư tưởng nhân đạo mà nhà văn Tô Hoài gửi gắm.
Trong tác phẩm " Vợ Chồng A Phủ " Mị là nhân vật chính của câu chuyện. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên, có tài" thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ", nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống làm dâu của Mị không hề dễ dàng: Bị bóc lột sức lao động, làm việc quần quật suốt ngày đêm; bị chà đạp về quyền sống" không bằng con trâu con ngựa "; và bị hủy diệt về tinh thần" mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Nhưng trong con người tưởng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Và cơ hội ấy đã đến vào một đêm tình mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà. Còn A Phủ một thanh niên cường tráng, gan góc do đánh A Sử nên đã bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Không may A Phủ để hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Cảm thương cho người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả hai cùng chạy đến Phiềng Sa và trở thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giáp ngộ cách mạng giúp đỡ, A Phủ tham gia đội du kích cùng bản làng, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và tay sai.
Không phải là đêm tình mùa xuân lãng mạn, lần này, tâm trạng và hành động của Mị được đặt trong bối cảnh những đêm đông lạnh lẽo:
Đêm đông trên rẻo cao lạnh, dài và buồn nên Mị có thói quen trở dậy đốt lửa, hơ tay, hơ lưng. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần bởi nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị đến chết héo. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần: Gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa: Điệp từ" chỉ "diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị. Có lần A Sử bắt gặp vàđánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Từ vẫn tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.
Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái vô cảm, thản nhiên đến đáng sợ. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không" thèm biết ":
Sự vô cảm với nỗi đau của cả người khác và chính mình được thể hiện trong những chi tiết miêu tả thái độ, tâm tư của Mị khi hằng đêm ra sưởi lửa, hơ tay ở bếp lửa gần nơi A Phủ bị nhà thống lí trói bắt đứng ở cây cọc ngoài trời. Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người con trai đang trói, bị đói và rét đang chờ chết ngày bên cạnh mình. Mị cũng ý thức được sự thản nhiên của mình khi" thản nhiên thổi lửa, hơ tay " bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn nghĩ rằng" Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi ". Thật ra thì cô không chỉ thờ ơ với nỗi khổ của A Phủ. Bản thân mình bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, cô còn dửng dưng, không thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi, đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước. Đắng cay thay cho Mị lòng nhân ái lòng yêu thương con người vốn dĩ là một phẩm chất đã di truyền vào máu thịt của người phụ nữ, nhưng ở đây thì Mị đã bị thần quyền và cường quyền vùi lấp mất rồi, cho nên Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Những bếp lửa lớn bao giờ cũng gắn với sinh hoạt cộng đồng và nó biểu thị cho sự hân hoan, cho niềm vui sướng. Còn những ngọn lửa nhỏ bé, le lói thường biểu tượng cho cái kiếp sống lụi tàn.
Và nếu chúng ta đọc Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, chắc chắn ta sẽ hiểu rõ được hình ảnh của ngọn đèn con chị Tí cứ thế leo lét trong cái bóng tối bủa vây ôm lấy phố huyện. Và ở đây, chúng ta lại bắt gặp một ngọn lửa trên rẻo cao trong đêm mùa đông, ở đây lửa thì cô độc mà Mị thì cô đơn đến héo hắt, cứ thế người và lửa soi vào nhau cô đọc cô đơn trong những ngày dằng dặc của băng giá, hình ảnh Mị vì thế hiện lên càng trở nên đau khổ và cam chịu. Tất cả đã nói lên tình trạng sống câm lặng, chai sạn, giá băng là dấu ấn của sự tê liệt tinh thần ở Mị.
Thái độ thản nhiên, lạnh lùng đến đáng sợ của Mị phải chăng vì ở cô không có tình đồng loại? Vì sao vậy? Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí Pá Tra. Hai là, cuộc sống bao năm làm" con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa "đã tạo cho Mị một cách sống cam chịu, nhẫn nhục. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên cô đã trở nên chai lì về cảm xúc, vô cảm trong cả suy nghĩ; khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Cho dù hiểu thế nào đi chăng nữa thì nó cũng phản ánh tội ác của giai cấp thống trị, thấy được được tình cảnh đáng thương, bất hạnh, đặc biệt là hoàn cảnh để khẳng định sự trỗi dậy mãnh liệt của Mị ở những phần sau.
Như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm: " Văn học và đời sống là hai vòng trong đồng tâm mà tâm điểm là con người " Và xứ mệnh nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cũng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Xét trên bình diện nhân văn ấy thì đích đến cuối cũng của nghệ thuật là để cứu vớt con người. Có lẽ chính vì vậy, mà ngay trong lúc tưởng như A Phủ sắp phải trở thành hồn ma và tình trạng của Mị tưởng chừng chỉ là sự hiện diện của con người vô tri, thì Tô Hoài đã phả vào đấy tấm lòng sự trân trọng của ông đối với con người bởi không có gì cao quý bằng hai chữ" con người ".
Giọt nước mắt của A Phủ đúng là một chi tiết nâng tầm Tô Hoài. Theo nhà giáo Đỗ Kim Hồi thì chỗ đáng nể của Tô Hoài chính là ở đấy: " Nhà văn luôn biết tìm ra cái quyết định tất cả từ cái dường như không là cái gì hết cả ". Quả đúng là như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị bởi chính nhờ ngọn lửa đêm ấy Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy" dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen " lại của A Phủ. Một người con trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị trói đứng chết; một người con trai ngang tàng mạnh mẽ bây giờ lại phải lặng lẽ khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng, không thể che giấu vì không tự lau đi được, nước mắt của sự đau đớn vì cái chết đang gặm nhấm A Phủ từ từ, " chết đau, chết đói, chết rét ". Giọt nước mắt ấy không chỉ chảy xuống gò má đã xám đen của A Phủ mà dòng nước mắt ấy còn chảy cả vào trải tim của Mị. Trái tim ấy vốn dĩ đã bị đóng băng trong sự vô cảm, chai sạn nay được dòng nước mắt của A Phủ làm cho tan vỡ cái giá băng, cái lạnh lùng. Giọt nước mắt ấy đã thấm sâu vào đáy trái tim Mị thức dậy lòng nhân ái. Cho nên giọt nước mắt lấp lánh ấy chính là giọt nước mắt cuối cũng của A Phủ, nó cũng chính là giọt nước mắt làm tràn ly và đưa Mị về cõi quên, trở về cõi nhớ, và trải tim Mị quặn đau khi trông người lại ngẫm đến mình. Mị nhớ cái kí ức hãi hùng của Mị vào đêm tình mùa xuân năm trước, cũng bị A Sử trói đứng thế kia " tóc Mị xõa xuống hẵn cuốn luôn tóc lên cột ", " nhiều lần khóc nước mắt, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được " . Đây chính là lúc mà Mị đã hồi sinh được hoàn toàn, được đánh thức không chỉ ở cảm xúc mà còn được đánh thức bởi lí trí, cảm nhận cái nỗi đau của động loại bằng chính nỗi đau của mình.
Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị:" Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết ". Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.
Hình dung ra cái chết của mình nếu tiếp tục bị trói như thế; nhớ tới cái chết của người đàn bà ngày trước ở nhà thống lí; nghĩ đến cái chết của A Phủ sắp tới – Mị bất chợt nhận ra tất cả những cái chết ấy đều có nguyên nhân từ sự tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra. Mị đã nhận ra bản chất độc ác, vô nhân đạo của kẻ thù, lòng thương thân thức dậy tình người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm hờn, phẫn uất: Chúng nó thật độc ác! Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn đọa đày ở nhà thống lí đến chỗ cảm nhận được điều này là một bước tiến lớn trong nhận thức và tình cảm của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần quyền và cường quyền nữa.
Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ . Với bản thân mình, Mị có vẻ như đã cam chịu:" Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây ", nhưng trong lòng Mị lại phảng phất nghĩ về sự vô lí trong cái chết của A Phủ: người kia việc gì phải chết thế. Sau bao nhiều năm tháng sống trong sự thờ ơ, vô cảm thì chắc hẳn đây là ý nghĩ đầu tiên Mị dành cho người khác. Xúc cảm của trái tim nhân hậu vị tha tiếp tục đậm nét hơn khi Mị nhận ra tình cảnh của A Phủ: chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết rét, phải chết.. Nhưng từ " chết " xuất hiện liên tiếp tới 9 lần trong tâm chí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất của niềm ham sống một lần nữa đã trở lại với Mị. Nghĩ tới việc nếu A Phủ trốn thoát, Mị phải chết thay, Mị cũng không thấy sợ. Như vậy, nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ không phải vì sợ liên lụy mà là do sự thức đẩy của cảm giác bất bình, phẫn uất, thương người, sự đồng cảm với người cũng cảnh ngộ. Dẫu vậy, khi rút dao cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị vẫn như đang làm theo sự mách bảo của tiềm thức mơ hồ tồn tại trong một tấm lòng nhân hậu chưa hoàn toàn bị phá hủy, vì thế nên khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hoảng hốt, có lẽ lúc ấy, lí trí của Mị mới chợt nhận ra tiền thức đã xui khiến cô làm một việc thật ghê gớm!
Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng đồng thời thoát ra khỏi trạng thái vô cảm, lặng lẽ, trái tim nhân hậu hồi sinh thì đồng thời khát vọng sống cũng hồi sinh. Có lẽ, sau giây phút đứng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vụt đi, hình ảnh một con người trên bờ vực của cái chết đang mạnh mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần gian, tìm cho mình sự sống khiến Mị đột ngột hiểu điều mình cần làm ngày bây giờ, ngay lập tức, đó là tự giải thoát mình khỏi ách thông trị, đày ải, trói buộc tàn bạo của cường quyền và thần quyền trong suốt thời gian qua. Hành động này Mị không có kế hoạch không tình sẵn mà nó đến một cách bất ngờ và được tiếp sức bởi hành động của A Phủ khi quật sức vùng lên chạy. Chính hành động của A Phủ giống như một ngọn gió sức mạnh để thổi bùng lên khát vọng sống của Mị," Mị vụt chạy ra trời tối lắm, nhưng Mị vẫn đuổi kịp A Phủ "chạy, đã lăn, chạy, chạy". Ở đoạn văn này tác giả đã sử dụng một loạt các động từ mạnh để diễn tả cái tốc độ rất nhanh của Mị, Mị ra sức chạy thoát chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra nơi địa ngục trần gian để tìm thấy tự do. Đây chính là hành động của niềm khao khát sống rất mãnh liệt, niềm khao khát ấy được thể hiện ra rất rõ qua lời nói của Mị. Có thể nói đây là một hạnh động tất yếu của Mị, tự giải thoát khỏi những gông xiềng và cường quyền bạo lực, đó cũng là con đường duy nhất để tự cứu người cứu mình.
Với việc tạo tình hình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn, cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình hợp lí cũng với ngôn ngữ hình ảnh đậm chất miền núi giàu chất thơ, Tô Hoài đã tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục khiến độc giả không nào quên được.
Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ca ngợi con người? Văn học luôn lấy con người làm đối tượng phản anh ra và mỗi giải đoạn, ta lại thấy những nhân vật điển hình. Nhìn lại chặng đường của nền văn học Việt Nam, ta bắt gặp hình tượng Chí Phèo vừa đi vừa chửi "ngật ngưỡng bước ra từ trang sách" của Nam Cao, điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Ta xót thương cho thân phận bị cái đói cái nghèo thì sát đất của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho người lao động miền biển. Ta day dứt trước số phận của Mị trong thân phận "nàng dâu gạt nợ" nhà thống lí Pá Tra qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Tô Hoài, là đại diện cho người lao động nghèo miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh tự đứng lên giải phóng chính mình.
"Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Schedrin). Để làm được điều đó, nghệ thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Và như thế, tôi tin rằng "Vợ chồng A Phủ" là một tuyệt tác trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi nhà văn Tô Hoài – một nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phải trong nền văn học nước nhà.
04/02/2024
Duy AnhTrong đoạn trích, diễn biến tâm lý của nhân vật Mị được thể hiện qua một loạt các cảm xúc và suy nghĩ.
Ban đầu, Mị mô tả cảnh đêm mùa đông trên núi cao, tạo nên một không gian buồn tẻ và lạnh lẽo. Mị nhận thức rằng nếu không có lửa sưởi, cô sẽ chết héo. Mỗi đêm, Mị phải dậy ra thổi lửa để giữ ấm cho gia đình. Mặc dù mệt mỏi, Mị vẫn tiếp tục công việc này.
Mị nhìn thấy A Phủ, người mà cô tưởng đã chết, nhưng vẫn sống. Mị nhớ lại những kỷ niệm đau buồn khi bị trói đứng và khao khát tự do. Mị cảm thấy tức giận và căm phẫn với những người đã đối xử tàn nhẫn với cô và A Phủ. Mị cảm thấy tuyệt vọng và chấp nhận số phận của mình, chỉ biết chờ đợi ngày chết.
Tuy nhiên, khi Mị thấy A Phủ còn sống và đang trong tình trạng khốn khó, cô bất ngờ nhận ra một cơ hội để thoát khỏi cảnh tù tội. Mị quyết định giúp A Phủ thoát khỏi sự trói buộc và cùng nhau chạy trốn. Trong khoảnh khắc đó, sức sống mãnh liệt của Mị được thể hiện qua quyết tâm và sự kiên nhẫn để đạt được tự do.
Từ diễn biến tâm lý này, ta thấy rằng con người có khả năng vượt qua khó khăn và đấu tranh để tìm đến tự do. Mị là một ví dụ điển hình cho sức mạnh và ý chí của con người trong cuộc sống.
04/02/2024
Trong đoạn trích, nhân vật Mị trải qua một quá trình tâm lý phức tạp từ sự chịu đựng và hy sinh cho đến sự hy vọng và cuối cùng là sự tự do. Ban đầu, Mị sống trong một môi trường khắc nghiệt, đêm đông trên núi cao. Mị phải thổi lửa suốt đêm để giữ ấm và sống sót. Mị không chỉ phải đối mặt với sự rét buốt mà còn phải chịu đựng sự ám ảnh của A Phủ, người đã trói Mị và giam cầm Mị trong quá khứ. Mặc dù Mị biết rằng A Phủ là một kẻ độc ác, Mị vẫn tiếp tục thổi lửa và hy vọng vào một ngày tự do. Sự xuất hiện của A Sử khiến Mị bị đánh ngã, nhưng Mị không bỏ cuộc. Mị tiếp tục thổi lửa và không sợ hãi. Mị nhớ lại những đau khổ mà Mị đã trải qua và quyết tâm không để bản thân trở thành nạn nhân. Mị đã tìm cách giải thoát A Phủ khỏi sự giam cầm và cùng nhau chạy trốn. Trong quá trình chạy trốn, Mị và A Phủ đều hiểu rằng sự tự do chỉ có thể đạt được bằng cách đối mặt với nguy hiểm và đấu tranh. Mị đã dũng cảm đứng lên và giải thoát A Phủ, cho thấy sức sống mãnh liệt và quyết tâm của con người trong cuộc chiến để tìm đến tự do. Từ diễn biến tâm lí của Mị, ta thấy rằng con người có khả năng vượt qua những khó khăn và hy sinh để đạt được mục tiêu tự do. Mị không sợ hãi và không từ bỏ, mà luôn kiên trì và quyết tâm trong cuộc đấu tranh của mình.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời