câu 16: Dưới thời vua Minh Mạng, hoạt động khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện qua việc b. dựng miếu, trồng cây ở một số đảo. Trong sách "Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỷ", quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi rõ vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17-1836, Bộ Công tâu với triều đình: "... Xin từ năm nay trở về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ giáp thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng 2 thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình". Sau đó, vua Minh Mạng chuẩn y lời tâu của Bộ Công, sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, đồng thời cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến Hoàng Sa dựng. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc dòng chữ: "Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ".
câu 17: Dưới thời kì nhà Nguyễn, một trong những biện pháp của nhà nước nhằm xác lập chủ quyền và quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là b. khảo sát đo vẽ bản đồ. Việc khảo sát đo vẽ bản đồ giúp chính quyền chúa Nguyễn xác định rõ vị trí địa lý, định hình ranh giới và quản lý lãnh thổ, từ đó tạo cơ sở lịch sử vững chắc cho hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay.
câu 18: . Nội dung nào sau đây không phản ánh đúng nhiệm vụ của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải dưới triều Nguyễn?
a. Dựng miếu thờ và trồng cây ở một số đảo
Giải thích: Trong số các nhiệm vụ của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải dưới triều Nguyễn, việc dựng miếu thờ và trồng cây ở một số đảo không phản ánh đúng nhiệm vụ của hải đội. Các nhiệm vụ chính của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải bao gồm đo đạc và cắm dấu mốc tại nơi khảo sát, ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán, và tiến hành thu gom, khai thác sản vật biển.
câu 19: Xin lỗi, tôi không có thông tin cụ thể về việc chính quyền Pháp đại diện cho Việt Nam trong quan hệ đối ngoại đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua việc thành lập đội Hoàng Sa, thành lập đội Bắc Hải, xây dựng trạm khí tượng hoặc xây dựng sân bay lớn.
câu 20: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua việc b. thành lập đội Hoàng Sa, Bắc Hải và Trường Đà. Đây là hoạt động thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, đồng thời đặt cơ sở lịch sử vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay.
câu 21: Từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945, quốc gia đại diện cho quyền lợi của Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Pháp. Pháp đã thực hiện quản lý và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này.
câu 22: Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Giơnevơ (1954), lực lượng tiếp quản và khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
câu 23: Nhà nước Việt Nam không áp dụng biện pháp chủ động tấn công vũ trang để bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Biện pháp này không phù hợp với chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề Biển Đông. Các biện pháp khác như tuyên truyền chủ quyền biển, đảo, đàm phán ngoại giao và xây dựng lực lượng quản lý biển là những biện pháp mà nhà nước Việt Nam áp dụng để bảo vệ chủ quyền và thực thi quyền lợi hợp pháp của mình ở Biển Đông.