Làm sao để có câu trả lời hay nhất?
08/05/2024
08/05/2024
“Tiếng đàn bầu” là bài thơ để đời của nhà thơ Lữ Giang. Thi phẩm không chỉ là một tác phẩm văn học đẹp, mà còn chứa đựng tinh thần sâu sắc và tình cảm sâu đậm với văn hóa dân tộc Việt Nam. Sự kết hợp giữa ngôn từ và âm nhạc trong bài thơ đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật đầy ấn tượng, gây xúc động và chạm đến lòng người nghe. Đặc biệt, chính những nét đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm đã tạo thành sợi dây gắn kết thi phẩm với độc giả.
Lữ Giang (1928-2005) tên thật là Trần Xuân Kỷ, quê ở xã Công Chính, huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia nhiều cơ quan ở địa phương. Hòa bình lập lại ông làm biên tập lâu năm của báo Chính nghĩa. Vừa làm báo, Lữ Giang vừa say mê viết văn và làm thơ. Ông đã viết được một loạt truyện ký và tiểu thuyết như Hạnh phúc trên thế gian (1978), Ánh sáng và mây mù (1979), Con Đức mẹ (1990) và Dốc sương mù (2003). Trong đó, tác phẩm được biết đến nhiều là bài thơ Tiếng đàn bầu được nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc.
Theo lời kể của nhà thơ Lữ Giang thì bài thơ Tiếng đàn bầu được ông sáng tác vào năm 1954, đăng trong tập thơ “Nắng bên sông”. Đây chính là lần ông được cùng người thân đạp xe từ Nghệ An ra Hà Nội dự buổi biểu diễn của Đoàn Văn công Quân đội do nhà thơ Hoàng Cầm chỉ đạo. Nhà thơ Lữ Giang không sao quên được cảm xúc của ông trong chuyến hành hương về thủ đô này: “Năm 1954, khi thủ đô được giải phóng, đạp xe từ Khu 4 về Hà Nội, tôi được nghe một nghệ sĩ biểu diễn đàn bầu. Ôi tiếng đàn bầu thánh thót, réo rắt đến vậy, làm xao xuyến lòng người… Khi Nguyễn Đình Phúc đọc bài thơ của tôi, tôi thấy anh rất tâm đắc với bài thơ này”. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, đã khái quát được bóng dáng quê hương đất nước với chiều sâu văn hóa cũng như thể hiện được tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều thấm đẫm tiếng lòng của nhà thơ với những cảm xúc tinh tế khi nghe tiếng đàn bầu.
“Tiếng đàn bầu” là tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Về tư tưởng, thông qua tiếng đàn bầu- vẻ đẹp văn hóa của người Việt thi phẩm đã thể hiện được tình yêu, niềm tự hào về quê hương, đất nước của nhà thơ. Trước hết, hình tượng tiếng đàn bầu là hình tượng nghệ thuật đặc sắc của bài thơ được hiện lên với những cung bậc âm thanh, cảm xúc phong phú. Xuyên suốt cả bài thơ có sự sóng đôi giữa tiếng đàn bầu và tiếng lòng của nhà thơ. Ở khổ thơ thứ nhất với biện pháp so sánh và điệp từ, hình ảnh thơ trở nên gợi hình, gợi cảm hơn và âm thanh của tiếng đàn bầu trong đêm cũng trở nên da diết, thiết tha hơn. Đặc biệt là những giai điệu ngân vang, ngọt ngào, trữ tình giống như dòng suối ngọt, làm cho thời gian cũng có sắc màu. Đến với khổ thơ thứ hai, với những câu thơ xuất thần như:
Tiếng đàn bầu của ta
Lời đằm thắm thiết tha
Cung thanh là tiếng mẹ
Cung trầm như giọng cha
Người đọc không chỉ cảm nhận được sự độc đáo về âm thanh của tiếng đàn mà còn cảm nhận sâu sắc hơn tình cha, nghĩa mẹ qua các cung bậc của tiếng đàn. Tiếng đàn bầu hiện lên với những cung bậc âm thanh thật đằm thắm, thiết tha,khi trầm khi bổng, khi thanh thoát như tiếng mẹ, khi trầm vang như giọng cha. Thế nhưng, ở khổ thơ thứ ba, giọng thơ trầm lại, tiếng đàn bầu lúc này như ai oán, như than thở cho một kiếp người cô độc giữa cuộc đời. Hình ảnh: Có người hát xẩm mù/ Ôm đàn đi trong mưa/Mưa hòa cùng nước mắt gợi lên cho người đọc sự xót thương, đồng cảm sâu sắc. Mỗi khúc ngân của tiếng đàn bầu là cả một quá trình trăn trở, suy tư, của tác giả. Dường như lúc này tiếng đàn bầu mang theo những giai điệu bi ai, não nuột, buồn tủi khi đất nước, nhân dân bị rơi vào cảnh lầm than nô lệ, mất độc lập tự do. Đặc biệt, đến với khổ thơ cuối, tiếng đàn bầu lại hóa thân thành những giai điệu hào hùng, réo rắt, vui tươi ẩn chứa niềm vui sâu đậm ngợi ca đất nước trong ngày chiến thắng. Có thể thấy, tiếng đàn bầu hiện lên với những cung bậc âm thanh, cảm xúc phong phú không chỉ phản ánh đời sống tâm hồn của con người Việt Nam mà còn gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước, dân tộc. Đồng thời, qua hình tượng tiếng đàn bầu cũng góp phần khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Đó là niềm xúc động khi nhà thơ lắng nghe từng giai điệu của tiếng đàn bầu, là niềm tự hào, ngợi ca về một loại hình âm nhạc độc đáo của dân tộc. Đặc biệt, đó còn là tình yêu với quê hương, đất nước, là sự quyết tâm lưu giữ, bảo tồn một loại hình âm nhạc truyền thống của dân tộc, là lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước. Ngoài ra, đọc thi phẩm cũng giúp ta chiêm nghiệm ra nhiều bài học sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước, về lưu giữ, bảo tồn những nét văn hoá truyền thống của dân tộc.
Về nghệ thuật, “Tiếng đàn bầu” đã hội tụ nhiều yếu tố hình thức đặc sắc, góp phần tạo nên thành công của thi phẩm cũng như thể hiện tài năng của tác giả. Nhà thơ lựa chọn thể thơ năm chữ quen thuộc, gần gũi cùng với lời thơ đầy ấn tượng, thay đổi theo dòng cảm xúc của tiếng đàn đã giúp bài thơ giống như một bản nhạc trầm bổng, du dương. Xây dựng hệ thống hình ảnh tự nhiên, chân thực, cụ thể, giàu tính tạo hình, giàu giá trị biểu cảm đã gây ấn tượng mạnh mẽ đến bạn đọc, đồng thời giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về những giai điệu của tiếng đàn, về thân phận, cảnh ngộ của con người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước mất độc lập tự do. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị cũng là một điểm sáng ấn tượng của thi phẩm. Đặc biệt, sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, liệt kê, đối không chỉ giúp bài thơ giàu tính nhạc, gợi hình, gợi cảm mà còn khắc họa rõ nét những cung bậc âm thanh, cảm xúc của tiếng đàn bầu cũng như là tiếng lòng của thi nhân.
Bài thơ “Tiếng đàn bầu” của Lữ Giang không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là biểu tượng của tinh thần và văn hóa dân tộc Việt Nam. Sự kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại, đánh bại thời gian và luôn truyền tải cảm xúc sâu sắc đến người nghe, làm cho mỗi hạt âm nhạc từ đàn bầu trở nên sống động và ý nghĩa hơn bao giờ hết. Đồng thời, thi phẩm đã làm cho đàn bầu trở nên phổ biến và trở thành biểu tượng của âm nhạc dân tộc, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa của Việt Nam trong lòng người dân và trên trường quốc tế.
Quang Đạt Trần
08/10/2024
Thịnh Idol chắc là ko hơn đc tình cha đâu
17/10/2024
08/10/2024
Linh LêLữ Giang (1928-2005) tên thật là Trần Xuân Kỷ, quê ở xã Công Chính, huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia nhiều cơ quan ở địa phương. Hòa bình lập lại ông làm biên tập lâu năm của báo Chính nghĩa. Vừa làm báo, Lữ Giang vừa say mê viết văn và làm thơ. Ông đã viết được một loạt truyện ký và tiểu thuyết như Hạnh phúc trên thế gian (1978), Ánh sáng và mây mù (1979), Con Đức mẹ (1990) và Dốc sương mù (2003). Trong đó, tác phẩm được biết đến nhiều là bài thơ Tiếng đàn bầu được nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc.
Theo lời kể của nhà thơ Lữ Giang thì bài thơ Tiếng đàn bầu được ông sáng tác vào năm 1954, đăng trong tập thơ “Nắng bên sông”. Đây chính là lần ông được cùng người thân đạp xe từ Nghệ An ra Hà Nội dự buổi biểu diễn của Đoàn Văn công Quân đội do nhà thơ Hoàng Cầm chỉ đạo. Nhà thơ Lữ Giang không sao quên được cảm xúc của ông trong chuyến hành hương về thủ đô này: “Năm 1954, khi thủ đô được giải phóng, đạp xe từ Khu 4 về Hà Nội, tôi được nghe một nghệ sĩ biểu diễn đàn bầu. Ôi tiếng đàn bầu thánh thót, réo rắt đến vậy, làm xao xuyến lòng người… Khi Nguyễn Đình Phúc đọc bài thơ của tôi, tôi thấy anh rất tâm đắc với bài thơ này”. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, đã khái quát được bóng dáng quê hương đất nước với chiều sâu văn hóa cũng như thể hiện được tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều thấm đẫm tiếng lòng của nhà thơ với những cảm xúc tinh tế khi nghe tiếng đàn bầu.
“Tiếng đàn bầu” là tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Về tư tưởng, thông qua tiếng đàn bầu- vẻ đẹp văn hóa của người Việt thi phẩm đã thể hiện được tình yêu, niềm tự hào về quê hương, đất nước của nhà thơ. Trước hết, hình tượng tiếng đàn bầu là hình tượng nghệ thuật đặc sắc của bài thơ được hiện lên với những cung bậc âm thanh, cảm xúc phong phú. Xuyên suốt cả bài thơ có sự sóng đôi giữa tiếng đàn bầu và tiếng lòng của nhà thơ. Ở khổ thơ thứ nhất với biện pháp so sánh và điệp từ, hình ảnh thơ trở nên gợi hình, gợi cảm hơn và âm thanh của tiếng đàn bầu trong đêm cũng trở nên da diết, thiết tha hơn. Đặc biệt là những giai điệu ngân vang, ngọt ngào, trữ tình giống như dòng suối ngọt, làm cho thời gian cũng có sắc màu. Đến với khổ thơ thứ hai, với những câu thơ xuất thần như:
Tiếng đàn bầu của ta
Lời đằm thắm thiết tha
Cung thanh là tiếng mẹ
Cung trầm như giọng cha
Người đọc không chỉ cảm nhận được sự độc đáo về âm thanh của tiếng đàn mà còn cảm nhận sâu sắc hơn tình cha, nghĩa mẹ qua các cung bậc của tiếng đàn. Tiếng đàn bầu hiện lên với những cung bậc âm thanh thật đằm thắm, thiết tha,khi trầm khi bổng, khi thanh thoát như tiếng mẹ, khi trầm vang như giọng cha. Thế nhưng, ở khổ thơ thứ ba, giọng thơ trầm lại, tiếng đàn bầu lúc này như ai oán, như than thở cho một kiếp người cô độc giữa cuộc đời. Hình ảnh: Có người hát xẩm mù/ Ôm đàn đi trong mưa/Mưa hòa cùng nước mắt gợi lên cho người đọc sự xót thương, đồng cảm sâu sắc. Mỗi khúc ngân của tiếng đàn bầu là cả một quá trình trăn trở, suy tư, của tác giả. Dường như lúc này tiếng đàn bầu mang theo những giai điệu bi ai, não nuột, buồn tủi khi đất nước, nhân dân bị rơi vào cảnh lầm than nô lệ, mất độc lập tự do. Đặc biệt, đến với khổ thơ cuối, tiếng đàn bầu lại hóa thân thành những giai điệu hào hùng, réo rắt, vui tươi ẩn chứa niềm vui sâu đậm ngợi ca đất nước trong ngày chiến thắng. Có thể thấy, tiếng đàn bầu hiện lên với những cung bậc âm thanh, cảm xúc phong phú không chỉ phản ánh đời sống tâm hồn của con người Việt Nam mà còn gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước, dân tộc. Đồng thời, qua hình tượng tiếng đàn bầu cũng góp phần khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Đó là niềm xúc động khi nhà thơ lắng nghe từng giai điệu của tiếng đàn bầu, là niềm tự hào, ngợi ca về một loại hình âm nhạc độc đáo của dân tộc. Đặc biệt, đó còn là tình yêu với quê hương, đất nước, là sự quyết tâm lưu giữ, bảo tồn một loại hình âm nhạc truyền thống của dân tộc, là lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước. Ngoài ra, đọc thi phẩm cũng giúp ta chiêm nghiệm ra nhiều bài học sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước, về lưu giữ, bảo tồn những nét văn hoá truyền thống của dân tộc.
Về nghệ thuật, “Tiếng đàn bầu” đã hội tụ nhiều yếu tố hình thức đặc sắc, góp phần tạo nên thành công của thi phẩm cũng như thể hiện tài năng của tác giả. Nhà thơ lựa chọn thể thơ năm chữ quen thuộc, gần gũi cùng với lời thơ đầy ấn tượng, thay đổi theo dòng cảm xúc của tiếng đàn đã giúp bài thơ giống như một bản nhạc trầm bổng, du dương. Xây dựng hệ thống hình ảnh tự nhiên, chân thực, cụ thể, giàu tính tạo hình, giàu giá trị biểu cảm đã gây ấn tượng mạnh mẽ đến bạn đọc, đồng thời giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về những giai điệu của tiếng đàn, về thân phận, cảnh ngộ của con người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước mất độc lập tự do. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị cũng là một điểm sáng ấn tượng của thi phẩm. Đặc biệt, sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, liệt kê, đối không chỉ giúp bài thơ giàu tính nhạc, gợi hình, gợi cảm mà còn khắc họa rõ nét những cung bậc âm thanh, cảm xúc của tiếng đàn bầu cũng như là tiếng lòng của thi nhân.
Bài thơ “Tiếng đàn bầu” của Lữ Giang không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là biểu tượng của tinh thần và văn hóa dân tộc Việt Nam. Sự kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại, đánh bại thời gian và luôn truyền tải cảm xúc sâu sắc đến người nghe, làm cho mỗi hạt âm nhạc từ đàn bầu trở nên sống động và ý nghĩa hơn bao giờ hết. Đồng thời, thi phẩm đã làm cho đàn bầu trở nên phổ biến và trở thành biểu tượng của âm nhạc dân tộc, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa của Việt Nam trong lòng người dân và trên trường quốc tế.
tôi làm Cho vui và cái nay ko phải của tôi xin lỗi ctrl v nhá ì 💀😂
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời