05/06/2024
05/06/2024
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn, nhà thơ, trong đó không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm cùng bản Trường ca Mặt đường khát vọng. Nổi bật trong bản trường ca là văn bản Đất nước. Ở đây, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mỹ Dạ,.. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. “Đất nước” thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ các vùng địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, xuống đường, hòa nhịp vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nếu ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lý, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân được hiện lên qua phương diện địa lý trong cách nhìn độc đáo của tác giả. Một loạt những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta hiện ra trước mắt người đọc: Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”
Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Những vần thơ như gợi nên một nỗi buồn man mác nơi đáy lòng, liệu rằng hôm nay những người đàn bà của đất nước Việt Nam có giống như Hòn Vọng Phu chờ chồng mòn mỏi hay không…? Qua hình ảnh đó, ta thấy được một tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân dân ta. Trên mảnh đất Việt Nam có biết bao tảng đá lớn giống như những người đàn bà bồng con chờ chồng. Đó vốn chỉ là một hòn đá vô tri nhưng lại mang vẻ đẹp của đời sống nhân dân ta từ ngàn đời. Bởi nó mang trong mình một linh hồn dân tộc cao quý, tiêu biểu cho đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con, yêu chồng, nguyện hóa đá đợi chồng, tượng trưng cho sự thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta. Không chỉ kết tinh nên một hòn Vọng Phu mà đó còn là sự hóa thân thành huyền thoại của hòn Trống Mái:
“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp ở Sầm Sơn. Đó là hai tảng đá lớn hình thù ngộ nghĩnh, xếp chồng lên một nền đá chênh vênh. Nhân dân ta đã tưởng tượng 2 hòn đá ấy là hòn Trống và hòn Mái. Từ đó, hòn Trống, Mái trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, mãi mãi không chia lìa.
Không chỉ là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tình yêu đôi lứa, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta trong sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
Câu thơ được lấy cảm hứng từ truyền thuyết Thánh Gióng. Một cậu bé từ không biết nói trong suốt ba năm đã thốt ra câu nói đầu tiên là xin đi đánh giặc bảo vệ quê hương. Sau khi đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi áo giáp sắt rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời. Những ao, đầm còn lại ngày hôm nay được cho là dấu tích gót ngựa Thánh Gióng. Tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm phải mặn nồng đến nhường nào thì nhân dân ta mới có thể tưởng tượng kỳ diệu đến như vậy về những ao, đầm quen thuộc nơi quê hương.
Một sự hóa thân kỳ diệu nữa được hiện ra, đó là hình ảnh người học trò nghèo hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên”
Núi Bút, non Nghiên là những ngọn núi đẹp trông như hình cái bút, nghiên mực. Nhân dân ta lấy đặc điểm hình dáng của núi đặt tên thành núi Bút, non Nghiên. Những người học trò xưa thì cái bút, cái mực là một vật dụng vô cùng quan trọng. Vì thế mà qua đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người Việt.
Với niềm tự hào, say sưa với vẻ đẹp đất nước, nhà thơ lại một lần nữa vận dụng sự quan sát tinh tế và khả năng liên tưởng sáng tạo tài hoa:
“Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương”.
Câu thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi chín con voi là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng. Thực chất, chín chín con voi là tượng trưng của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân suốt bốn nghìn năm. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hàng năm không thể quên được ngày tháng lịch sử mùng mười tháng ba:
“Hàng năm ăn đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
Nhà thơ mở rộng hết khả năng sáng tạo và hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương: “Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm”. Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh: “Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Nhà thơ nhìn tất cả những thứ gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào hình tượng Đất Nước lớn lao.
“Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã được đặt tên cho sông núi: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,... Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp, soi bóng tâm hồn nhân dân và những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị rằng nhân dân đã làm nên đất nước. Mọi danh lam thắng cảnh chỉ thực sự mang ý nghĩa cao cả và lấp lánh dòng máu tự hào dân tộc khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của nhân dân:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha”
Tất cả như hiện ra trước mắt Nguyễn Khoa Điềm, đó là những ruộng đồng, gò bãi đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Và sự hóa thân ấy là sự hóa thân của nhân dân suốt 4000 năm lịch sử:
“Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....”
Thán từ "ôi" và dấu ba chấm cuối đoạn thơ diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành và niềm tự hào về chiều dài xa xăm bất tận của đất nước của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước của dân tộc. Câu thơ "những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Chính nhân dân đã sống và cống hiến như một huyền thoại làm nên hình sông, dáng núi suốt dọc chiều dài lịch sử đất nước của chúng ta.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời