Truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài đều là hai tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 và thời kì kháng chiến chống Pháp. Cả hai tác phẩm này đều thể hiện được tài năng nghệ thuật độc đáo cùng với tấm lòng nhân đạo sâu sắc của các tác giả.
Đầu tiên, cả hai tác phẩm đều có chung một chủ đề đó chính là số phận của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội phong kiến xưa. Họ đều phải chịu đựng những áp bức, bóc lột nặng nề từ giai cấp thống trị. Trong truyện ngắn Vợ Nhặt, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh của nhân vật Tràng - một người nông dân nghèo khổ, sống cơ cực, lay lắt như “ngọn đèn trước gió”. Tràng làm nghề kéo xe bò thuê, chẳng mấy khi kiếm đủ ăn. Cuộc sống lay lắt, bấp bênh ấy cứ thế trôi đi trong sự tủi nhục, cô đơn. Còn trong truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài lại xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị - một cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Mị phải sống triền miên trong cùm kẹp, trong đọa đày, không có tự do cả về thể xác lẫn tâm hồn. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai tác phẩm này là ở cách khai thác số phận của người nông dân. Nếu như nhà văn Kim Lân chỉ tập trung vào một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, chỉ vỏn vẹn có hai ngày sau Cách mạng tháng Tám thì nhà văn Tô Hoài lại lấy bối cảnh là một vùng cao Tây Bắc trong thời kỳ trước cách mạng. Điều này đã tạo nên sự đa dạng, phong phú cho hai tác phẩm.
Ngoài ra, cả hai tác phẩm còn có nét tương đồng trong việc miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật. Trước hết là nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Sau khi có được vợ một cách tình cờ, Tràng cảm thấy vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến mức vui mừng, hạnh phúc. Anh ta cứ nghĩ rằng mình đang ở trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le thế nhưng giờ đây lại trở nên phấn khởi, mê man, ngây ngất như in trong một giấc mơ. Còn đối với nhân vật Mị, ban đầu, cô bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra trong trạng thái tê liệt, mất hết ý thức phản kháng. Cô nhẫn nhịn, cam chịu mọi đau khổ, bất công. Thế rồi, đêm tình mùa xuân đã thổi bùng lên ngọn lửa ham sống, khát vọng hạnh phúc trong lòng Mị. Mị muốn đi chơi, Mị chuẩn bị kỹ lưỡng để đi chơi xuân nhưng cuối cùng lại bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Sự đối lập gay gắt giữa mong ước và hiện thực khiến Mị rơi vào trạng thái nửa tỉnh táo, nửa mê man.
Cuối cùng, cả hai tác phẩm đều mang đậm giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn Kim Lân và nhà văn Tô Hoài đã bày tỏ niềm xót xa, thương cảm trước cuộc đời đầy bi kịch của những người nông dân nghèo khổ. Đồng thời, họ cũng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp đáng quý bên trong những con người tưởng chừng như đã bị cái đói, cái khổ làm cho chai lì, vô cảm.
Như vậy, qua việc phân tích, so sánh hai tác phẩm Vợ Nhặt và Vợ Chồng A Phủ, chúng ta có thể thấy được những nét tương đồng và khác biệt đặc sắc của chúng. Hai tác phẩm này đã góp phần làm nên diện mạo phong phú, đa dạng cho nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 và thời kì kháng chiến chống Pháp.