Đất Nước là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam, đã được nhiều nhà thơ thể hiện thành công như Nguyễn Khoa Điềm với trường ca Mặt đường khát vọng, hay Nguyễn Đình Thi qua bài Đất nước… Mỗi người đều có những cảm nhận riêng về quê hương, Tổ quốc mình. Trong số các nhà thơ viết về đề tài Đất Nước không thể không nhắc đến Tạ Hữu Yên với bài thơ “Đất nước”. Bài thơ ra đời vào năm 1968, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trên toàn miền Bắc. Tác giả lúc đó đang làm phóng viên báo Quân đội nhân dân. Ông đã chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn giặc đối với mảnh đất quê hương mình. Từ nỗi đau mất mát, từ tình yêu quê hương tha thiết, ông đã viết nên bài thơ này.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ lên trước mắt chúng ta hình ảnh một làng quê thanh bình, yên ả nơi xứ nhãn lồng:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
Câu thơ mở đầu giản dị như lời kể về một điều hết sức bình thường: Làng tôi vốn làm nghề chài lưới. Đó là một ngôi làng nằm ven sông Trà Lý, thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngôi làng ấy sống bằng nghề đánh cá và làm ruộng. Hai câu thơ tiếp theo lại cho chúng ta biết vị trí địa lý đặc biệt của ngôi làng ấy: “nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”. Nghĩa là ngôi làng ấy bốn bề đều là sông nước bao bọc, chỉ cách biển Đông một con sông Trà Lý. Như vậy, làng tôi chính là ngôi làng Hưng Nhân – quê hương của nhà thơ Tạ Hữu Yên.
Bốn câu thơ tiếp theo nói về lịch sử oai hùng của làng Hưng Nhân:
“Khi giăc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Chồng chị, anh em đi vắng cả
Chị dũng cảm dậm thừng chổi quét ra
Dù giặc Tây bắn nổ cháy khô rau muống”
Tác giả đã dùng nghệ thuật tương phản để làm nổi bật tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân làng mình. Khi giặc đến, lũ đàn bà con gái trong làng cũng dám đứng lên chống trả. Họ thiếu vũ khí, chỉ có mỗi cái chổi cùn cũng dám xông ra quét sạch bọn xâm lăng. Dù chồng, dù con họ đều đã ra trận cả rồi, nhưng họ vẫn quyết tâm ở lại làng cùng du kích đánh giặc. Giặc Tây tràn vào làng, chúng đốt cháy khô cả vồng rau muống của họ. Nhưng không vì thế mà họ chịu thua chúng.
Hai khổ thơ tiếp theo, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh làng quê sau chiến tranh:
“Sau chiến tranh trở về làng
Vẫn tre xanh và nụ cười trẻ thơ
Trên mái nhà lấm tấm rêu
Những vết đạn còn đây chờ kỷ niệm”
Đó là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống. Vẫn là những rặng tre xanh rì rào trong gió, vẫn là tiếng cười đùa vui vẻ của lũ trẻ thơ. Trên mái nhà vẫn còn lấm tấm rêu, nhưng đó là màu rêu của thời gian, của sự bình yên chứ không phải màu rêu của khói lửa đạn bom. Và trên những mái nhà ấy, vẫn còn in hằn những dấu vết của chiến tranh. Những vết đạn kia sẽ mãi là một minh chứng cho tội ác của quân xâm lược.
Khổ thơ thứ sáu là những dòng thơ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối với Đảng, Bác Hồ kính yêu:
“Nhờ Đảng dẫn đường chỉ lối
Từ nay ta thoát kiếp đời trâu ngựa
Nhờ Người sớm nắng chiều mưa
Ta thoát khỏi kiếp đời trâu ngựa gian nan”
Chính nhờ có ánh sáng của Đảng soi đường chỉ lối, nhờ có tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân Việt Nam mới thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than, mới được hưởng tự do, ấm no hạnh phúc.
Năm khổ thơ cuối cùng, tác giả đã bày tỏ niềm tin sắt đá vào một tương lai tươi sáng của đất nước:
“Rồi mai ta hát trên đồng
Bài ca dành tặng những người đã hy sinh
Họ ngã xuống để ta đứng dậy tiến lên phía trước
Để ta được sống những tháng ngày tự do”
Trong tương lai, đất nước ta sẽ hòa bình, nhân dân ta sẽ được sống trong ấm no hạnh phúc. Lúc đó, mọi người sẽ cùng nhau cất cao tiếng hát để mừng ngày chiến thắng. Tiếng hát ấy là dành tặng cho những người đã ngã xuống vì nền độc lập của dân tộc. Máu xương của họ đã thấm đẫm từng tấc đất, từng ngọn cỏ trên quê hương thân yêu này. Nhờ có sự hi sinh cao cả ấy mà hôm nay chúng ta mới được sống những tháng ngày tự do.
Như vậy, bài thơ “Đất nước” của Tạ Hữu Yên đã khắc họa thành công hình ảnh một làng quê nghèo khó nhưng giàu truyền thống yêu nước. Qua bài thơ, chúng ta càng thêm trân trọng giá trị của hòa bình, thêm yêu quý và tự hào về quê hương, Tổ quốc mình.