Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng, một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại cho hậu thế là kiệt tác "Truyện Kiều". Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời của nàng Kiều tài năng và xinh đẹp nhưng lại chịu số phận 15 năm lưu lạc, lênh đênh giữa cuộc đời. Vẻ đẹp và tấm lòng hiếu thảo của nàng luôn được Nguyễn Du giữ gìn và trân trọng trong mỗi câu chữ. Một trong những đoạn thơ thể hiện rõ điều này là đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (trích "Truyện Kiều") với 22 câu thơ lục bát.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Đoạn trích đã khắc họa cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, tâm trạng đau đớn, xót xa và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Bốn câu thơ đầu tiên gợi tả cảnh ngộ cô đơn, bẽ bàng, tội nghiệp của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Lầu Ngưng Bích là nơi thú vị thưởng ngoạn cảnh đẹp nhưng cũng có ý nghĩa giam hãm tuổi thanh xuân tươi đẹp của người con gái. Trong hoàn cảnh cô đơn, lẻ loi, Thúy Kiều chỉ còn biết tìm đến vầng trăng tri âm tri kỉ làm bầu bạn. Nhưng ngay cả đến vầng trăng dường như cũng trở nên vô nghĩa khi nó không thể giúp Kiều vơi bớt nỗi cô đơn đang bủa vây. Không gian mênh mông, bao la càng khiến Kiều cảm thấy mình nhỏ bé, lạc lõng hơn. Những từ ngữ như "non xa", "trăng gần", "cát vàng", "bụi hồng" vừa gợi hình ảnh cụ thể của thiên nhiên vừa gợi thời gian lúc hoàng hôn và canh khuya của ngày tàn. Tất cả đều gợi lên sự cô liêu, hoang vắng. Cảnh thì rộng lớn mà con người thì nhỏ bé, cô độc.
Trong tâm trạng cô đơn ấy, nỗi nhớ người thân càng thêm da diết:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Từ "bẽ bàng" đã diễn tả tâm trạng tủi hổ của Kiều. Nàng xấu hổ vì phải bán mình chuộc cha, xấu hổ vì phải sống trơ trọi giữa một không gian mênh mông toàn gió, trăng và mây. Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều được đặt trong sự tương đồng "nửa tình nửa cảnh". Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cảnh vật thiên nhiên dù có đẹp đẽ, thơ mộng nhưng cũng nhuốm màu tâm trạng của con người. Tâm trạng của Kiều là sự đau khổ, xót xa, bẽ bàng, ê chề. Tất cả những cảm xúc đó đã đẩy nàng vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi ấy, Thúy Kiều đã hướng tầm mắt ra phía xa xăm để kiếm tìm sự đồng điệu nhưng tất cả đều vô ích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Thiên nhiên ngoài kia tuy rộng lớn nhưng cũng chỉ mang đến cho Kiều sự lạnh lẽo, vô cảm. Kiều cố gắng kiếm tìm sự đồng điệu nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ, lãnh đạm. Vì vậy, nàng đành quay trở lại với chính bản thân mình. Nàng tự hỏi hoa rơi có biết mình sẽ tan nát, liệu cánh hoa có hiểu được rằng nó rồi sẽ bị vùi dập dưới dòng nước đục hay không. Tương lai mờ mịt, tăm tối khiến Kiều cảm thấy bất lực và tuyệt vọng. Nàng không biết mình sẽ trôi dạt về phương nào, sẽ đi về đâu. Ngay cả đến tính mạng của mình Kiều cũng không thể quyết định được.
Cuối cùng, Kiều hướng tầm mắt ra phía xa xăm để kiếm tìm sự đồng điệu. Nhưng đáp lại chỉ là tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi. Đó là dự cảm về một tương lai đầy sóng gió, bão tố đang chờ đợi Kiều ở phía trước.
Như vậy, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, ngôn ngữ độc thoại nội tâm cùng việc sử dụng các biện pháp tu từ như đảo ngữ, điệp ngữ, đối lập,... Nguyễn Du đã miêu tả thành công tâm trạng cô đơn, buồn tủi, đau đớn, xót xa và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó, chúng ta thấy được vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của đại thi hào Nguyễn Du.