Đoạn thơ "Hạt gạo làng ta" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Trần Đăng Khoa, được sáng tác vào năm 1968, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đoạn thơ đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng biết ơn đối với người nông dân Việt Nam.
Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã giới thiệu về hạt gạo - sản vật quý giá của quê hương:
"Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy".
Hạt gạo không chỉ là sản phẩm của lao động cần cù, vất vả mà còn mang trong mình hồn cốt của quê hương. Hạt gạo có vị phù sa của sông Kinh Thầy, có hương sen thơm ngát của hồ nước đầy. Những hình ảnh này gợi lên vẻ đẹp bình dị, thanh tao của làng quê Việt Nam.
Tiếp theo, tác giả đã kể về quá trình làm ra hạt gạo:
"Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy..."
Để có được hạt gạo trắng ngần, người nông dân phải trải qua bao khó khăn, gian khổ. Họ phải dầm mưa dãi nắng, vất vả cày cuốc, gieo mạ, chăm sóc lúa. Những câu thơ sử dụng nhiều từ ngữ giàu sức gợi tả như "bão", "mưa", "nắng", "cày cuốc", "gieo mạ", "chăm sóc lúa"... đã giúp người đọc hình dung rõ nét cuộc sống lao động vất vả nhưng cũng rất đáng tự hào của người nông dân.
Cuối cùng, tác giả đã ca ngợi giá trị của hạt gạo:
"Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi vào trong nam
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta...".
Hạt gạo không chỉ là nguồn lương thực nuôi sống con người mà còn là biểu tượng của sự no ấm, hạnh phúc. Hạt gạo được gửi đi khắp nơi, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoạn thơ "Hạt gạo làng ta" được viết theo thể thơ lục bát, nhịp điệu uyển chuyển, nhẹ nhàng. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống thường ngày. Hình ảnh thơ sinh động, giàu sức gợi tả. Tất cả đã tạo nên một bức tranh quê hương tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
Đoạn thơ đã khơi gợi trong em niềm tự hào về truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của người nông dân Việt Nam. Em càng thêm trân trọng những hạt gạo trắng ngần, những thành quả lao động của ông cha ta để lại.