Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc ở làng quê mỗi độ hè về. Âm thanh ấy gợi lên trong lòng nhà thơ Tố Hữu bao cảm xúc và những suy nghĩ về cuộc sống, về sự tự do nên ông đã sáng tác nên bài thơ Khi con tu hú. Bài thơ được sáng tác vào tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), in trong tập thơ Từ ấy. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình yêu cuộc sống, khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi bị giam cầm trong nhà tù thực dân.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa hạ đẹp giàu sức sống:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.
Sáu câu thơ đầu tiên đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên mùa hạ đẹp giàu sức sống. Tiếng chim tu hú gọi bầy đã báo hiệu mùa hè đến, những bông lúa chín vàng trĩu hạt, trái cây thì ngọt dần. Trong khung cảnh đó còn có cả màu vàng của ngô, màu hồng của nắng mới, màu xanh của trời, cùng với đó là âm thanh rộn ràng của tiếng ve đang hòa mình vào bản nhạc mùa hạ. Trên bầu trời cao rộng mênh mông, những cánh diều chao lượn, vi vu tấu lên khúc nhạc du dương. Khung cảnh thiên nhiên thật tươi đẹp, tràn trề nhựa sống khiến cho tác giả phải thốt lên:
"Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không."
Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời, người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi như khao khát được hòa nhập, tung hoành cùng gió mây bốn phương:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Giữa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy, tâm trạng người chiến sĩ cách mạng lại bị bó buộc, tù hãm trong xà lim chật hẹp, tách biệt với thế giới bên ngoài. Tâm trạng đau khổ này đã chi phối suy nghĩ của nhà thơ, khiến anh mơ về cuộc sống tự do, thoáng đãng bên ngoài:
"Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!"
Trong bốn câu thơ cuối, tác giả đã thể hiện trực tiếp nỗi cay đắng, phẫn uất, sự u uất, ngột ngạt, niềm khát khao cháy bỏng muốn thoát khỏi cảnh tù ngục để trở về với đồng đội, chiến đấu chống lại kẻ thù cướp nước. Nhà thơ đã sử dụng các động từ mạnh như: đạp, ngật, chết,... kết hợp với các từ ngữ cảm thán như: ôi, thôi,... vừa để bộc lộ cảm xúc, vừa để nhấn mạnh tâm trạng của mình. Đặc biệt, câu thơ cuối đã khắc họa rõ nét tâm trạng đau khổ, uất ức, ngột ngạt muốn vùng vẫy, tung phá của người chiến sĩ.
Bài thơ Khi con tu hú được viết theo thể lục bát đậm đà tính dân tộc, kết hợp linh hoạt giữa diễn tả tâm trạng bằng bút pháp trữ tình và biểu cảm. Các hình ảnh gần gũi, giản dị nhưng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tác phẩm đã cho thấy tình yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi bị giam cầm trong nhà tù thực dân.