Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Thơ ông mang đậm tính sử thi, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân; giọng tâm tình tự nhiên, ngọt ngào, tha thiết, chân thành, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc... Bài thơ "Việt Bắc" được sáng tác vào tháng 10 năm 1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Tác phẩm là khúc ca ân tình sắt son thủy chung giữa đồng bào Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Đoạn trích đã tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở - người đi, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ mở ra bằng lời hỏi của người ở lại:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...
Câu thơ mở đầu giống như câu hát giao duyên trong ca dao, dân ca gợi không khí đối đáp giao duyên. Người ở lại cất tiếng hỏi nhưng cũng là để bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của mình. Điệp từ "mình", "ta" kết hợp với các động từ "nhớ", "yêu" diễn tả sự gắn bó sâu nặng, tình nghĩa thủy chung. Câu thơ thứ hai khẳng định chắc chắn mối quan hệ khăng khít, bền chặt ấy sẽ mãi vẹn nguyên dù cho hoàn cảnh có đổi thay. Lời nhắn nhủ nhẹ nhàng, tha thiết mà thấm thía.
Người đi bày tỏ nỗi nhớ nhung da diết:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Biện pháp so sánh "nhớ gì như nhớ người yêu" nhấn mạnh nỗi nhớ da diết, khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ ấy khiến thời gian trôi nhanh, ngày đêm chuyển hóa, hòa quyện vào nhau. Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật nên thơ, hữu tình: ánh trăng vàng trải khắp núi rừng, ánh nắng chiều nhuộm đỏ lưng nương, bản làng chìm trong làn khói sương mờ ảo, bếp lửa bập bùng sưởi ấm mái nhà, dòng suối tuôn chảy ào ào... Tất cả đều in đậm dấu ấn của con người. Con người hiện lên trong công việc lao động sản xuất quen thuộc: phát rẫy, tỉa bắp, dựng nhà, chuốt giang,... Họ cần cù, chịu khó, chăm chỉ lao động. Thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên hài hòa, gắn bó mật thiết với nhau.
Cách xưng hô "mình - ta" vừa thân mật, gần gũi, vừa trang trọng, thiêng liêng. Đó là cách nói của những người trong cùng một cộng đồng, cùng một dân tộc. Những địa danh được nhắc tới đều rất cụ thể, rõ ràng: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê, tất cả tạo nên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người nơi đây.
Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đồng thời, thể hiện tấm lòng biết ơn, trân trọng của tác giả dành cho mảnh đất và con người nơi đây.