06/02/2025
06/02/2025
goddjChủ đề người lính luôn là một nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn nhà thơ viết. Có rất nhiều các tác phẩm viết và ca ngợi về hình ảnh kiên cường bất khuất của người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhớ của Hồng Nguyên là một bài thơ tiêu biểu trong số những bài thơ về đề tài người lính.
Nhớ là một bài thơ hay của Hồng Nguyên. Ông tên thật là Nguyễn Văn Vượng. Nhớ được viết vào năm 1946 khi nhà thơ sắp lên đường vào Vinh làm việc với tờ báo dân mới. Bài thơ Nhớ gắn với bút danh Hồng Nguyên kể từ đó để cho tới nay thời gian vẫn nhớ tới một gương mặt tài hoa mà đoản mệnh của xứ Thanh. Với Hồng Nguyên nhớ chính là ký ức của cuộc đời. Nhớ chính là ký ức về người chiến sĩ, một cuộc đời với bao kỷ niệm khó quên, sự nhớ thương da diết của thuở ban đầu bước vào cuộc kháng chiến là điểm gặp gỡ quen thân của những người chiến sĩ.
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Khổ thơ gợi lên không khí của những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi những chàng thanh niên đang lứa tuổi thiếu niên từ nhiều miền quê khác nhau đã hăng hái lên đường nhập ngũ, họ là những con người khiêm tốn, trung thực, luôn hào hứng với những niềm vui của tuổi trẻ và với cuộc sống mới. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính có một vị trí quan trọng trong văn học và thơ ca. Ở họ ta thấy được nhiều phẩm chất cao đẹp của người quần chúng cách mạng. Đoạn thơ đã thể hiện chân thực hình ảnh người lính bộ đội cho những ngày đầu mới thành lập lực lượng vũ trang, trong những ngày tháng còn gian khổ thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần chiến đấu của họ vẫn luôn dâng cao và hừng hực khí thế.
<iframe class="ql-video" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Khi mới được thành lập mọi người đều ở những vùng quê với những hoàn cảnh khác nhau. Thế nhưng ta vẫn cảm nhận được có cái gì đó rất thân mật gần gũi. Họ là những thanh niên nông dân trong bộ quân phục gắn bó với nông thôn, đang quen với cuộc sống thanh bình và trong thời kỳ này rất nhiều người còn mù chữ và tất cả những khó khăn đó đều được khắc phục trong những năm tháng ở quân ngũ. Một điểm chung của họ đó chính là lòng yêu nước nồng nàn và sự lạc quan, không sợ hãi, không ngại khó khăn thử thách, luôn chủ động tìm địch và chiến đấu bằng vũ khí thô sơ.
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Với ý chí quyết tâm đánh giặc của mình mặc dù họ là những người với hai bàn tay trắng để đánh địch nhưng họ có thể rèn kiếm, không có súng thì kiếm súng. Giống như trong tác phẩm Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành một câu bất hủ mà cụ Mết đã nói chúng nó dùng súng thì mình phải dùng giáo. Quả thực đúng như thế đó là một triết lý của thời đại, muốn đánh giặc phải có vũ khí. Đoạn thơ là sự tiêu biểu cho khí thế chiến tranh nhân dân, khi đồng bào đã giác ngộ lý tưởng cách mạng với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần xung kích đều thể hiện sự dũng cảm trong chiến đấu. Khi đã sẵn sàng lên đường nhập ngũ người lính phải bỏ lại người thân, gia đình, mái tranh..
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
Tình cảm hậu phương chính là tình cảm chung của những người đã khuất đã được nhà thơ thể hiện dưới nhiều màu sắc khác nhau. Cuộc sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn người lính khi nhớ đến những người hậu phương với một niềm nhớ nhung tha thiết. Hình ảnh người phụ nữ lao động sớm hôm luôn là hình ảnh thao thức trong mỗi người lính thì lên đường đi chiến đấu.
Nhớ là bài thơ viết về người lính. Bài thơ đã nói lên sự chân thực sinh động về tình đồng chí và nét sinh hoạt của những người lính trong quân đội. Cuộc sống còn nhiều khó khăn phức tạp nhưng ở họ rất vui tươi lạc quan yêu đời. Tình đồng đội được thể hiện sâu sắc đáng yêu của các hoạt động hàng ngày. Có rất nhiều những kỷ niệm được ghi lại trong những chuyến hành quân.
Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Pause
00:00
00:26
01:31
Mute
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên.
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?. Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa.
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
…
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..."
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ."Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời