Trong những năm tháng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, cuộc sống gian khổ nơi rừng núi hoang vu đã trở thành một phần không thể thiếu đối với những người lính. Những năm tháng ấy sau này trở thành kỉ niệm khó quên, là những ngày tháng thiêng liêng nhất đời họ. Chính vì vậy khi miền Bắc được giải phóng và dành thời gian để nhìn lại những ngày tháng đã qua, nhà thơ Hồng Nguyên đã viết lên bài thơ Nhớ đồng như một lời tâm tình gửi gắm nỗi niềm về những kỉ niệm xưa.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh căn phòng tĩnh lặng với tiếng gà gáy xa xăm đưa tác giả vào không gian kí ức mênh mông. Đó là những cảm xúc buồn thương da diết khi nhớ về quê hương, gia đình và những người thân yêu:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ xuôi
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tiếng kêu của con chim tu hú đánh thức nỗi mong mỏi của người chiến sĩ cách mạng. Tiếng gọi thiết tha của tự do như giục giã, thôi thúc những người tù vượt thoát khỏi bốn bức tường giam để đến với cuộc sống khoáng đạt tự do của bầu trời cao rộng.
Những câu hỏi dồn dập vang lên trong lòng người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi: Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh/ Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Trong không gian tịch mịch chỉ còn nghe thấy tiếng kêu của con chim tu hú vọng vào như tiếng đồng vọng của chính trái tim mình. Tâm trạng đau khổ, bực bội, ngột ngạt và uất ức trào dâng như lửa đốt trong lòng.
Bằng việc sử dụng các thanh trắc kết hợp với các từ ngữ gợi tả, tác giả đã diễn tả thành công tâm trạng u uất của người chiến sĩ cộng sản. Họ muốn bứt phá khỏi những tù túng, chật hẹp để ra với cuộc sống rộng lớn, tự do ở bên ngoài.
Sự tương phản giữa hiện tại và quá khứ, giữa ước mơ và thực tế khiến cho người chiến sĩ càng cảm thấy bế tắc, cô đơn và tuyệt vọng hơn. Nhưng cũng chính điều đó đã tạo nên động lực, sức mạnh để họ có thể vượt qua hiện thực khắc nghiệt đó.
Sau bao nhiêu năm tháng chờ đợi, cuối cùng thì đất nước Việt Nam cũng giành lại được độc lập, tự do. Người chiến sĩ năm nào giờ đây đã được trở về với cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên, những năm tháng trong lao tù đã cướp đi tự do nên họ luôn cố gắng tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn nhất.
Trở lại với cuộc sống bình thường, người chiến sĩ năm xưa vẫn giữ vững phẩm chất tốt đẹp của người lính cụ Hồ. Họ hăng say tham gia vào cuộc sống lao động tập thể, cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn:
Vãn chiêu mộ bạn cùng thôn trướcLao xao làng nữa bên sông
Bao giờ về đến quê ta
Sáng chồi biếc trên cành cây hết rét
Nắng vàng, nắng hẹn mưa nguồnhe rung rinh bờ lúa xanh còn non
Tình quê tiếp cho đôi chân
Dài vô tận những ngày không nghỉ…
Người lính trở về mang theo hành trang là những kỉ niệm ấm áp nghĩa tình. Đó là những kỉ niệm gần gũi, giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng, sâu sắc. Nó gắn liền với mái đình, mái chùa, với những người mẹ già, người vợ trẻ, những em bé áo nâu… Tất cả đã trở thành động lực giúp họ thêm vững chắc trên con đường phía trước.
Với giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha và nồng nàn, bài thơ Nhớ đồng đã khơi gợi lại những kí ức đẹp đẽ của người chiến sĩ cách mạng trong những năm tháng gian lao. Đồng thời, nó cũng thể hiện khát khao tự do và ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.