phần:
bài 20: : Thể thơ của bài thơ trên là thất ngôn bát cú Đường luật.
: Hai câu đề trong bài thơ "Tự Thán" thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn và chán chường của tác giả trước cảnh vật thiên nhiên. Tác giả cảm thấy mình như một chiếc lá rụng rơi xuống đất, không còn sức sống, không còn ý nghĩa gì nữa. Cảnh vật thiên nhiên cũng mang vẻ u sầu, hiu quạnh, góp phần làm tăng thêm nỗi buồn của tác giả.
: Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ đầu tiên là so sánh. Tác giả so sánh bản thân với "lá vàng", một hình ảnh tượng trưng cho sự tàn tạ, héo úa. So sánh này nhằm nhấn mạnh sự bất lực, vô vọng của tác giả khi đối mặt với cuộc đời.
: Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhà thơ nổi tiếng với những sáng tác giàu giá trị nhân văn. Bài thơ "Tự Thán" là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật của ông. Bài thơ thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn của tác giả trước cảnh vật thiên nhiên. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về sự bất lực, vô vọng của con người trước dòng chảy thời gian.
câu 1: Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật
câu 2: Đọc văn bản và xác định những từ ngữ, hình ảnh miêu tả cuộc sống của Nguyễn Trãi: "chẳng phải quan", "lánh về nhàn", "cầm, kì, thi, họa", "thơ lại", "nơi vắng vẻ". Từ đó nhận xét về cuộc sống của tác giả.
- Cuộc sống của Nguyễn Trãi là một cuộc sống thanh bạch, giản dị nhưng không khắc khổ. Ông chọn cho mình lối sống hòa hợp với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần, đồng thời vẫn luôn giữ tấm lòng trung hiếu, sẵn sàng giúp nước, giúp dân.
câu 3: Nguyễn Trãi là nhà quân sự lỗi lạc, nhà kinh bỉ, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, ông đã để lại cho đời sau nhiều áng văn hay, giàu giá trị. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Thuật hứng số 5. Tác phẩm đã giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của tác giả.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
"Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen"
Hai câu thơ gợi lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê với những loài hoa, loài cây quen thuộc như: bèo, muống, sen, ... Chúng đều là những loài cây gần gũi, gắn liền với cuộc sống của người dân Việt Nam. Đặc biệt, chúng còn được trồng ở những nơi gần gũi, quen thuộc như ao, đìa. Ở hai câu thơ này, chúng ta cảm nhận được sự yên bình, tĩnh lặng của làng quê Việt Nam. Đó là khung cảnh rất đỗi thân thương, giản dị nhưng chan chứa biết bao tình cảm.
Trong khung cảnh ấy, nổi bật lên hình ảnh con người với những công việc lao động quen thuộc:
"Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc
Giang thâu thủy tinh đúc áp chân bào".
Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thì hai câu thơ cuối, tác giả đã vẽ thêm cả sự xuất hiện của con người. Hình ảnh con người hiện lên với công việc "kho thu", "ương sen". Con người xuất hiện đã khiến cho cảnh vật trở nên sinh động hơn, có hơi thể, nhịp thở của sự sống. Khung cảnh thiên nhiên vẫn hiện lên với những nét đẹp dịu dàng, nên thơ. Ánh trăng chiếu rọi khắp mọi ngõ ngách, làn nước ao thu trong veo, ... Tất cả đã tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ.
Như vậy, bốn câu thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên và con người tuyệt đẹp. Bức tranh ấy vừa giản dị, gần gũi nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
Không chỉ yêu thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn luôn giữ cho mình một tâm hồn lạc quan, yêu đời:
"Nham hư cửu thị nhàn quy cốt
Thụy đương tam canh mộng mỹ can".
(Vắng vẻ đến cực thì vui lạ lùng,
Trọn ngày trong bếp, ngủ vùi trong chăn.)
Tư tưởng "nhàn" của Nguyễn Trãi không phải là lánh đời, mà là muốn sống hòa hợp với thiên nhiên, giữ cho mình một tâm hồn thảnh thơi, ung dung. Hai câu thơ đã khẳng định rằng: với Nguyễn Trãi, cuộc sống giản dị, thanh cao mới chính là cái đích của tự do, của hạnh phúc. Ông không coi trọng danh lợi, phú quý vì nó sẽ khiến con người ta phải bận rộn, vướng vào vòng xoay của cuộc sống bon chen.
Ở hai câu thơ tiếp theo, chúng ta lại càng cảm nhận rõ ràng hơn nữa tư tưởng ấy của tác giả:
"Dưỡng chí vu hồ khuê tương tận
Hồi đầu vạn lí dư đồ cận".
(Chí làm trai dặm nguôi khôn thể bỏ,
Cõi giang sơn trong khoảng vạn lí. )
Ông luôn ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước, với nhân dân. Dù đã lui về ở ẩn, không tham gia vào chốn quan trường bon chen nhưng ông vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm cứu nước giúp đời. Tư tưởng ấy của ông thật đáng trân trọng và ngợi ca.
Bằng ngòi bút tinh tế, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, Nguyễn Trãi đã đem đến cho người đọc những cảm nhận thật chân thực về cuộc sống của mình khi cáo quan về ở ẩn. Có thể thấy, Nguyễn Trãi xứng đáng là một tấm gương tiêu biểu về lối sống giản dị, thanh cao.
Bài thơ Thuật hứng số 5 đã giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Đó là vẻ đẹp của một con người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và luôn giữ gìn phẩm chất cao quý của mình.