Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Thuyết, quê tại thôn Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong gia đình nhà nho nghèo. Mồ côi mẹ từ lúc còn nằm nôi, lên 10 tuổi Nguyễn Bính đã phải theo anh là Nguyễn Mạnh Phác (nhà văn Trúc Đường) ra Hà Nội giúp nhau kiếm sống. Nguyễn Bính ba lần vào Nam, để lánh chuyện bị chính quyền Pháp làm khó dễ. Nguyễn Bính đã đổi tên trong căn cước thành Nguyễn Bính Thuyết. Nguyễn Bính làm thơ khá sớm. Cô hái mơ là bài thơ dăng báo đầu tiên. Năm 1937, ông được giải thưởng Tự lực Văn đoàn vơi tập thơ Tâm hồn tôi. Từ đó, người đọc quý mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo được phong vị thơ đặc biệt cho mình: phong vị lục bát ca dao. Bài thơ Xuôi đò là một trong những bài thơ hay mang phong vị ấy.
Đoạn trích trên nói về tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn cô gái về quê chồng. Những câu thơ mở đầu như những lời thủ thỉ tâm tình rất chân thực, là lời trăn trở, băn khoăn của chàng trai khi thấy cô gái sắp phải xa rời vòng tay mình để về nhà chồng:
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”…
Những câu thơ như những lời thủ thỉ tâm tình rất chân thực, là lời trăn trở, băn khoăn của chàng trai khi thấy cô gái sắp phải xa rời vòng tay mình để về nhà chồng. Chàng trai muốn níu kéo cô gái bằng cái nhìn thiết tha, bằng những câu hỏi dồn dập: “Anh đi đấy, anh về đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”. Ba lần hình ảnh “cánh buồm nâu” xuất hiện trong đoạn thơ. Nó vừa là hình ảnh tả thực, vừa là một tín hiệu thẩm mĩ đẹp đẽ. Đó là tín hiệu của nỗi nhớ nhung da diết, là niềm hi vọng chung thủy của người con trai gửi tới người con gái.
Hình ảnh “cửa tò vò” gợi không gian hẹp và xa xăm, nó càng làm nổi bật lên hình ảnh cánh buồm như một chứng nhân son sắt:
“Ai lên xứ Lạng cùng ai
Đường mây dặm phố bặt vô âm tín
Ai về xa khỏi Ba Hòn
Lớn lên sóng gió, động lòng nước non.”
Câu hỏi tu từ kết thúc khổ thơ vang lên như một lời trách móc, hờn giận, như một nỗi đau đớn tê tái của đôi lứa yêu nhau phải xa lìa. Nỗi đau ấy thấm vào cảnh vật, nó cứ xoáy sâu vào lòng người đọc:
“Đò dọc quạnh hiu nước uống cả ngày
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Cuội
Lắt lay cơi triện buông mành
Bến sông vẫn đợi, chị Hành vẫn ngồi.”
Không gian mênh mông, rộng lớn càng tô đậm thêm sự nhỏ bé, cô liêu của con người. Bến sông vẫn đợi, chị Hành vẫn ngồi nhưng trong lòng biết bao ngổn ngang trăm mối tơ vò.
Nguyễn Bính đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ… góp phần làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ và bộc lộ rõ nét tâm trạng của nhân vật trữ tình. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được vận dụng một cách nhuần nhuyễn càng làm tăng thêm vẻ đẹp cổ điển của bài thơ.
Bài thơ Xuôi đò là một minh chứng rõ ràng cho tài năng sáng tác độc đáo của Nguyễn Bính. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, tác giả đã gián tiếp phản ánh hoàn cảnh của những người trẻ tuổi trong xã hội cũ, họ luôn phải chịu nhiều trái ngang, dang dở trong tình duyên vì lễ giáo phong kiến hà khắc.