phần:
: I. Đọc hiểu
. Thể thơ của đoạn trích trên là thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
. Các biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ cuối: so sánh và ẩn dụ.
- So sánh: "lòng theo cùng trăng thu vời vợi"
+ Tác dụng: làm nổi bật nỗi nhớ quê hương da diết của Bác khi phải đón Tết Trung Thu trong cảnh lao tù.
- Ẩn dụ: "mảnh trăng thu"
+ Tác dụng: gợi lên hình ảnh về sự cô đơn, lẻ loi của Bác giữa bốn bức tường lạnh lẽo.
. Hai câu thơ đầu đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp của mùa thu. Mùa thu với ánh trăng tròn đầy, sáng rực rỡ, soi sáng cả bầu trời. Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật sinh động, tràn đầy sức sống.
Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của Bác Hồ. Trong hoàn cảnh bị giam cầm, Bác vẫn luôn hướng về quê hương, đất nước. Nỗi nhớ ấy khiến Bác cảm thấy buồn bã, cô đơn.
. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tinh thần lạc quan của Bác Hồ. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, Bác vẫn luôn giữ vững niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
phần:
câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ "Trung Thu" là một người con gái đang sống ở vùng quê nghèo khó. Cô ấy có tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên và cuộc sống đơn giản.
câu 2: - Bài thơ "Trung Thu" sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với cách gieo vần theo quy tắc: vần chân (vần ở chữ cuối mỗi câu). Cụ thể, bài thơ gieo vần theo cặp vần "trăng - vàng", "nguyệt - nguyệt". Cách gieo vần này tạo nên nhịp điệu đều đặn, uyển chuyển cho bài thơ, đồng thời góp phần làm tăng tính nhạc điệu, gợi cảm xúc cho người đọc.
câu 3: - Tác giả đã sử dụng phép đối giữa hai vế câu để tạo nên một bức tranh tương phản rõ nét. Một bên là hình ảnh sum họp gia đình ấm cúng, vui vẻ, còn một bên là cảnh tù đày cô đơn, lạnh lẽo. Sự đối lập này càng làm nổi bật nỗi nhớ quê hương da diết của Bác Hồ khi phải xa Tổ quốc.
câu 4: Bài thơ "Trung Thu" thể hiện một tâm trạng buồn bã, cô đơn của người phụ nữ khi mùa thu đến. Mùa thu với ánh trăng sáng rực rỡ nhưng lại gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết. Người phụ nữ cảm thấy mình như bị bỏ rơi giữa dòng đời tấp nập, không có ai để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. Tâm trạng ấy được thể hiện qua hình ảnh vầng trăng, tiếng chuông chùa ngân nga, khói sương mờ ảo,... Tất cả tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp nhưng cũng đầy u buồn.
câu 5: * Điểm giống nhau: Cả hai tác giả đều thể hiện tình cảm gắn bó với thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, phong thái ung dung, lạc quan.
* Điểm khác nhau:
- Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Trong tù không rượu cũng không hoa → hoàn cảnh khắc nghiệt thiếu thốn đủ mọi thứ kể cả những nhu cầu tối thiểu nhất.
+ Tâm trạng: Hứng khởi, say sưa trước vẻ đẹp của ánh trăng.
+ Nghệ thuật: Sử dụng phép đối, nhân hoá để nhấn mạnh vào niềm giao cảm giữa con người và thiên nhiên.
- Vầng trăng và đầu súng của Chính Hữu:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Giữa chiến trường đầy bom đạn hiểm nguy.
+ Tâm trạng: Xúc động khi bắt gặp vầng trăng nơi chiến trường.
+ Nghệ thuật: Không sử dụng nghệ thuật đối, nhân hoá mà thay vào đó là hình ảnh sóng đôi tạo nên một ý nghĩa đặc biệt cho câu thơ.
phần:
câu 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong số những tác phẩm nổi tiếng là bài thơ “Cảnh khuya”.
Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đang hồi gay go, quyết liệt: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mỏi mệt, trong cảnh đêm của núi rừng, Người bồi hồi xúc động trước cảnh đêm khuya êm ái. Bài thơ được viết bằng chữ quốc ngữ mang đậm tính hiện đại. Cũng vẫn là khung cảnh núi rừng Việt Bắc nhưng lại là khung cảnh thiên nhiên ở một chiều kích không gian khác. Mở đầu bài thơ là âm thanh vang vọng núi rừng:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Tiếng suối hay tiếng người? Có lẽ là cả hai âm thanh này đã hòa quyện vào nhau chăng? Thật khó để có thể phân biệt được. Trường liên tưởng và sự so sánh của Bác thật đặc biệt mà cũng thật đúng, tạo nên hình ảnh thơ sinh động, làm sống động cả khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Đọc câu thơ này ta lại bất giác nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”
Nếu như trong hai câu thơ của Nguyễn Trãi lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, của sự toàn mỹ thì ngược lại trong thơ Bác lại lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Đây có thể coi là một bước tiến, đánh dấu sự chuyển mình của thơ ca hiện đại. Bác đã so sánh tiếng suối với tiếng hát một cách tinh tế, gợi cảm, hình ảnh so sánh này khiến cho âm thanh của tiếng suối xa càng trở nên gần gũi, thân mật với con người hơn.
Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong như là “trong như tiếng hát xa”.
“Tiếng hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có sức lan tỏa mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa, con người còn có thể cảm nhận được? Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh của tự nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong những vần thơ của Bác.
Trong tiếng vang róc rách, thiên nhiên như phô bày hết vẻ đẹp trong sáng của mình:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Hình ảnh "Trăng lồng cổ thụ" mang nét truyền thống của thơ cổ, khi kết hợp với hoa, hình ảnh ấy đã tạo nên vẻ đẹp đầm ấm, quấn quýt của thiên nhiên. Hai từ "lồng" liên kết ba sự vật xa nhau, khác hẳn nhau nhưng không tại tương phản mà dường như chúng hòa quyện lại, vẻ đẹp tôn nét đẹp kia vẽ nên một bức tranh trong sáng.
Đọc câu thơ, ta có cảm giác như đang lạc vào chốn tiên, tận hưởng những đường nét, ánh sáng diệu kỳ mà thiên nhiên Việt Bắc vẽ nên, và ta còn có cảm giác tiếng suối cũng bay bổng, quấn quýt với hình ảnh "trăng lồng cổ thụ" và "bóng lồng hoa". Cảnh vật trong thơ Bác sao mà thân thiết với nhau đến thế!
Mỗi nét đều nâng vẻ đẹp của nét khác nên, cái tĩnh hòa vào cái động, cái động làm nổi bật cái tĩnh, mảng sáng chén mảng tối tạo thành một tổng thể hoàn hảo lạ lùng. Đâu phải ai cũng nhìn thấy điều ấy. Bác đã nghe và ngắm cảnh vật Việt Bắc trong đêm khuya bởi Bác thức cùng Việt Bắc:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Có một điểm cần lưu ý rằng, bài thơ Cảnh khuya được ra đời trong thời điểm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thiên nhiên càng tươi đẹp thì nó càng khiến bác lo âu chẳng thể nào ngủ được, lo cho vận mệnh nước nhà. Với cương vị là vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam Người luôn trăn trở lo âu làm sao cho “dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Điệp ngữ “chưa ngủ” mở đầu cho hai câu thơ cuối bài thơ diễn tả một mạch cảm xúc chảy dài, liền mạch và ngày một sâu sắc hơn, cao trào hơn. Trong đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc, Bác thao thức không ngủ được.
Một nhịp đập trái tim yêu nước thương nòi bao trùm cả bài thơ, để đến hôm nay nó còn tiếp tục lay động hồn người. Chúng ta càng thêm khâm phục Bác - một con người great vĩ đại với tâm hồn nghệ sĩ đáng trân trọng.