Trong nền văn học Việt Nam, nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình” thì Nguyễn Khuyến lại như một bức tượng đài bất tử của thơ ca cổ điển. Đặc biệt, ông còn có đóng góp lớn cho nền thơ ca dân tộc ở mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê và thơ trào phúng. Chùm thơ thu bằng chữ Nôm gồm ba bài thơ “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh” được đánh giá là những tác phẩm tiêu biểu cho thơ thu của dân tộc. Và trong đó, Thu vịnh được coi là bài thơ hay nhất. Bài thơ vừa mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về cảnh sắc mùa thu, đồng thời cũng bộc lộ những tâm sự thầm kín của tác giả về thời thế. Điều này được thể hiện rất rõ qua hai câu thực của bài thơ:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
Ở hai câu thực của bài thơ, khung cảnh mùa thu trên không gian rộng lớn hiện lên với bầu trời thu “xanh ngắt”, cao vời vợi, dường như chẳng còn giới hạn. Tác giả sử dụng màu “xanh ngắt” thay vì “xanh thẳm” bởi lẽ “xanh ngắt” là sự kết hợp giữa tính từ “xanh” và danh từ “tắt” mang ý nghĩa miêu tả sắc độ xanh da diết, bao la khi kết hợp cùng động từ “ngắt” gợi sự sâu thăm thẳm khiến cho không gian càng thêm rộng rãi, khoáng đạt hơn. Trên cái nền bầu trời bao la ấy là hình ảnh cần trúc “lơ phơ”, mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se se lạnh “hắt hiu”. Tính từ “lơ phơ” được sử dụng thật tinh tế, nó gợi ra cho chúng ta cái độc đáo, thanh mảnh của cần trúc. Không chỉ vậy, hình ảnh cần trúc trong tư thế “lơ phơ” ấy còn gợi ra cho người đọc cái vẻ hiu hắt, buồn man mác của cảnh vật. Đồng thời, từ láy “hắt hiu” ở câu thơ thứ hai cũng góp phần miêu tả những cơn gió thu nhẹ nhàng, se se lạnh cùng trạng thái của cây trúc. Như vậy, trong hai câu thực, Nguyễn Khuyến đã khắc họa thành công vẻ đẹp thanh cao, gợi cảm, hồn hậu của mùa thu quê hương mình.
Đọc xong bài thơ, trong lòng người đọc không khỏi ấn tượng trước khung cảnh mùa thu tuyệt vời nơi thôn quê thanh bình, yên ả. Nhưng ẩn sâu trong mỗi vần thơ, hình ảnh ấy là nỗi niềm tâm sự, suy ngẫm của tác giả về thời thế, về sự xoay chuyển của cuộc đời.