Nhắc đến Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với một tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trước những biến chuyển của đất trời, sự giao mùa khiến thi sĩ không khỏi bồi hồi mỗi khi ngắm nhìn khoảnh khắc thiên nhiên thay đổi. Và mỗi khi nhắc đến chủ đề này, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Tựu trường. Đặc biệt hơn cả, khổ thơ cuối của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về cảm xúc của tác giả khi nhớ về ngày đầu tiên đi học của mình.
“Mỗi chân bước, mỗi dừng lại tiếc chi lâu
Những bàn tay vẫy với, những bàn tay
Bàn tay ai nắm, bàn tay ai nắm
Qua bàn tay, qua ánh mắt, qua hơi thở
Môi cười nói, miệng thơm hoa lạ
Môi hồng đào, hàm răng trắng nõn
Mái tóc xanh, đồng chiều gió bay đi…”
Bài thơ Tựu Trường được trích trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Đúng như cái tên của nó, bài thơ như một lễ đài lộng lẫy chào đón những em bé lần đầu tiên cắp sách đến trường. Qua đó, tác giả đã bộc lộ những cảm xúc xao xuyến, bồi hồi khi nhớ về kỉ niệm ngày đầu tiên đi học của mình. Trong đó, khổ thơ cuối đã khép lại bài thơ bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ đặc sắc để diễn tả những cảm xúc khó phai của chính nhà thơ.
Huy Cận đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ liệt kê cùng với việc lặp lại cụm từ “bàn tay” nhằm nhấn mạnh vào hình ảnh đôi tay thân quen. Đó là bàn tay vẫy gọi của thầy cô, bàn tay nắm lấy tay tôi, bàn tay của những người bạn lạ lẫm lần đầu tiên gặp gỡ. Tất cả đã gửi gắm một niềm tin, một sự hi vọng vào một tương lai tươi sáng phía trước. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng, đôi tay không chỉ đơn thuần là một bộ phận trên cơ thể mà còn là phương tiện của tình yêu thương, sự chia sẻ, gắn kết giữa con người với con người. Đôi tay ấy tuy lạ mà quen, đã tiếp thêm sức mạnh cho cậu bé ngày đầu đến trường thêm tự tin, vững bước. Đồng thời, phép lặp còn tạo nên một nhịp điệu đều đặn, chậm rãi cho bài thơ, khiến dòng cảm xúc được trải dài, lan tỏa khắp câu chữ.
Không chỉ vậy, nhà thơ còn sử dụng rất nhuần nhuyễn nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác với hàng loạt những hình ảnh rực rỡ sắc màu như “bàn tay vẫy với”, “bàn tay nắm”, “ánh mắt”, “hơi thở”, “môi cười nói”, “miệng thơm hoa lạ”, “hàm răng trắng nõn”, “mái tóc xanh”. Điều này đã góp phần làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp lúc học trò trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Giờ đây, nhân vật trữ tình không còn lẻ loi, một mình trên con đường ngập tràn lá rụng nữa mà bên cạnh cậu là thầy cô, bạn bè, là những bàn tay đưa đẩy, những ánh mắt trao nhau, những nụ cười rạng rỡ. Tất cả đã sưởi ấm trái tim nhạy cảm của thi sĩ, giúp cậu nhanh chóng vượt qua nỗi cô đơn, sợ hãi, rụt rè trước chốn đông người.
Đặc biệt, hình ảnh “môi cười nói”, “miệng thơm hoa lạ”, “hàm răng trắng nõn”, “mái tóc xanh” gợi cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng thơ xinh đẹp trong vườn thần tiên kỳ diệu. Họ chính là những người bạn mới mở ra bao nhiêu dự định, ước mơ cho ngày hôm nay và cả mai sau. Chính họ sẽ cùng ta khắc ghi những kỉ niệm đẹp đẽ nhất trong suốt những năm tháng cắp sách đến trường.
Như vậy, bốn câu thơ cuối của bài thơ Tựu trường đã khép lại bài thơ bằng những hình ảnh giàu sức gợi, mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Qua đó, tác giả muốn thể hiện nỗi nhớ da diết về tuổi học trò hồn nhiên, ngây thơ và khát khao được trở về khoảng thời gian tươi đẹp ấy. Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về cảm xúc lưu luyến, bồi hồi của nhân vật trữ tình khi nhớ về ngày đầu tiên đi học.