Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực phê phán. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu của ông. Thông qua tác phẩm, tác giả đã phác họa chân thực cuộc sống khốn khổ của người dân nghèo trong xã hội phong kiến đồng thời lên án tội ác của bọn thống trị. Điều này được thể hiện đậm nét qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là chị Dậu. Trước hết chị Dậu là người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương. Trong hoàn cảnh chồng bị bắt, bị đánh đập vì chưa nộp sưu, chị Dậu chạy ngược chạy xuôi, vay mượn được chút ít gạo còn chẳng kịp nấu chín hạt cơm nào đã tất tưởi chạy đến nhà lí trưởng. Đến nơi, chị quỳ lạy, van xin tha thiết: "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!" nhưng mấy ai thấu hiểu tấm lòng của chị?
Chị Dậu là một người phụ nữ đôn hậu, cao cả, có tinh thần vị tha, độ lượng. Chồng bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn vì chưa nộp sưu, chị Dậu đã chạy ngược chạy xuôi để vay mượn, cố gắng sức để kiếm đủ tiền nộp sưu cho chồng. Sau khi chồng được thả về, chị nhẹ nhàng, ân cần chăm sóc chồng. Chị dịu dàng bưng bát cháo đến bên chồng. Lời nói ngọt ngào, thủ thỉ của chị như xua tan mọi mệt nhọc, đau đớn của anh Dậu.
Hình ảnh chị Dậu hiện lên thật đáng thương, nhưng cũng qua đó ta thấy được vẻ đẹp cao cả trong tâm hồn người phụ nữ ấy.
Trong hoàn cảnh khó khăn, khủng hoảng về kinh tế, chị Dậu phải bán con gái lớn cho lão Nghị Quế, một kẻ độc ác, tàn nhẫn; bán chó, bán khoai, bán sắn để lo đủ suất sưu cho chồng. Tưởng rằng anh Dậu sẽ được thả về với gia đình sau khi nộp đủ thuế, nhưng bọn chúng lại vô cùng tàn ác trói anh Dật rồi lôi đi. Chị Dậu cầu xin chúng tha cho chồng mình, nhưng càng van xin, chúng lại càng chửi bới mỉa mai chị. Bọn cai lệ hống hách, hách dịch, không có chút nhân tính, thậm chí không coi lời van xin của người khác ra gì. Chúng thẳng tay đánh đập những người thấp cổ bé họng, không có chỗ dựa. Khi bọn cai lệ sầm sập đến đòi anh Dậu, chị Dậu đã hạ mình van xin, nài nỉ. Để cứu chồng chị phải bán con, bán chó, làm được như vậy chị Dậu đau đơn như đứt từng khúc ruột. Chị sẵn sàng đứng lên đấu tranh, nhưng chỉ bằng lời nói mềm mỏng, chị Dậu như van xin: "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!". Nghe gọi "ông", lão Hạc vội ngửng đầu nhìn, lặng lẽ nghe chứ không nói. Lão hiểu, và chắc là đau đớn lắm. Thế rồi "lão cười nhạt" rồi "bò xuống". Chao ôi! Tiếng kêu của một linh hồn uất hận, tiếng kêu của một thân phận con người thấp hèn ở cái xã hội này. Chỉ bằng một vài câu gợi tả, ngòi bút Kim Lân như đã đi sâu vào tận cùng bi kịch của nhân vật, bộc lộ rõ số phận cũng như tính cách của họ.
Lão Hạc là một người cha giàu lòng yêu thương con, giàu lòng tự trọng. Tình yêu thương con của lão Hạc được thể hiện ngay cả khi anh con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Con trai đi rồi, lão dồn hết tình yêu thương vào cậu Vàng, kỉ vật duy nhất của con. Lão yêu quý cậu Vàng như vàng, cưng nựng nó, âu yếm nó, nuôi nó khôn lớn. Nhưng cũng vì yêu thương con, vì nghĩ tới con mà lão Hạc dằn vặt: "Ta bòn vườn của nó, bao nhiêu tiền kiếm được thì gửi ông giáo giữ hộ. Rồi moị ngày một ốm yếu, nó sẽ lấy vợ, sinh con, nếu không có tiền, nó sẽ khổ". Đói nghèo đã đẩy lão Hạc tới một lựa chọn nghiệt ngã: Nếu sống, lão sẽ phạm tới mảnh vườn của con; còn muốn giữ trọn mảnh vườn cho con thì lão phải chết. Và lão đã chủ động tìm đến cái chết bằng bả chó. Cái chết dữ dội và thê thảm của lão Hạc khiến ta đau đớn, xót xa.
Qua hai tác phẩm Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc, ta thấy được những khó khăn, bất công mà người nông dân phải chịu đựng trong xã hội cũ. Đồng thời, ta cũng thấy được những đức tính tốt đẹp của họ: giàu tình yêu thương, giàu lòng vị tha, độ lượng. Qua đó, ta cảm nhận được trái tim nhân đạo ấm áp của các nhà văn.
Đọc xong hai tác phẩm, em cảm thấy trân trọng cuộc sống hiện tại của mình hơn. Em hiểu rằng, mỗi trang sách mở ra giúp em hiểu thêm về quá khứ, để từ đó biết trân trọng cuộc sống hôm nay.