Dân tộc Nùng là một trong những dân tộc thiểu số tại Việt Nam với nền văn hoá lâu đời và đậm đà bản sắc. Việc tìm hiểu và bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Nùng là vô cùng cần thiết. Vì vậy, em đã quyết định viết bài giới thiệu về văn hoá dân tộc này.
Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, người Nùng ở Việt Nam có hơn 1 triệu người, đứng thứ 8 trong tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Nùng nói ngôn ngữ Tày - Thái (thuộc ngữ hệ Thái - Kađai). Trước đây, người Nùng dùng chữ Nho khi giao tiếp và viết lách. Sau này, họ đã sáng tạo ra loại chữ viết riêng dựa trên cơ sở chữ Hán nhưng được cải biến để ghi âm tiếng Tày - Nùng.
Về trang phục, phụ nữ Nùng thường mặc áo dài chui đầu, xẻ nách trái phải, cổ tròn hoặc cổ chữ V. Áo dài tay, cộc tay hoặc ngắn tay. Có nơi phụ nữ mặc áo bốn thân buộc chéo trước ngực rồi lót một tấm vải khác màu làm cho áo có vẻ kín đáo hơn. Họ còn mặc váy và quấn khăn. Chiếc khăn đội đầu của phụ nữ Nùng khá đặc biệt. Nó được làm bằng vải chàm, có trang trí hoa văn hình con ốc, hình thoi, hình vuông, hình răng cưa,... Ngoài ra, họ còn đeo thêm vòng bạc, xà tích, nhẫn, dây chuyền,... Nam giới Nùng thường mặc áo báng nâu, quần ống rộng, đi chân đất hoặc dép.
Người Nùng ở nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn của người Nùng thường được làm bằng gỗ, tre, nứa, lá cọ, mái lợp cỏ tranh hoặc ngói. Nhà đất của người Nùng được làm bằng gạch chỉ, mái lợp ngói, tường bao quanh nhà xây bằng gạch.
Món ăn truyền thống của người Nùng là cơm tẻ, xôi nếp, thịt gà, thịt lợn, cá,... Rượu men được người Nùng rất ưa chuộng. Đặc biệt, họ có hai loại rượu nổi tiếng là rượu "Nấm" và rượu "Cốt".
Phong tục hôn nhân của người Nùng khá phức tạp với nhiều nghi lễ. Lễ cưới của người Nùng gồm các bước như dạm hỏi, đón dâu, lại mặt. Trong quá trình thực hiện các nghi lễ, chú rể phải trải qua nhiều thử thách như hát đối đáp, trả lời câu hỏi của gia đình cô dâu,... Cô dâu và chú rể cũng phải chuẩn bị sính lễ để mang đến nhà gái. Sính lễ gồm tiền bạc, trầu cau, chè, thuốc, bánh chưng, rượu,...
Người Nùng có tín ngưỡng đa thần. Họ tin rằng mỗi sự vật đều có linh hồn. Do đó, họ thờ cúng tổ tiên, ma nhà, thổ công, thổ địa, thần núi, thần sông,... Người Nùng ăn Tết Nguyên đán giống như người Kinh. Bên cạnh đó, họ còn có tết Thanh minh, tết Đoan ngọ, tết Trung thu,... Ngày giỗ tổ tiên cũng được người Nùng coi trọng.
Ngoài ra, người Nùng còn có các nghi lễ nông nghiệp như lễ xuống đồng, lễ cầu mưa, lễ mừng cơm mới,...
Như vậy, dân tộc Nùng có những nét đẹp văn hoá độc đáo, góp phần làm giàu cho bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần trân trọng và bảo tồn những giá trị văn hoá ấy.