Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những tác phẩm của ông thường mang đậm tính triết lí, giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật ấy phải kể đến trường ca Mặt đường khát vọng mà nổi bật là đoạn trích Đất Nước. Qua những vần thơ, ta thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ cuối bài.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và có nhiều đóng góp cho cách mạng. Ông hoạt động văn nghệ và từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trường ca Mặt đường khát vọng được sáng tác tại chiến khu Trị Thiên năm 1971. Tác phẩm ban đầu có tên là "Đất nước" gồm 9 chương. Sau đó, khi xuất bản được tác giả ghép thêm hai chương đầu thành "Đất nước" và "Mặt đường khát vọng". Đoạn trích "Đất nước" thuộc phần đầu của trường ca. Với 90 câu thơ đầu, tác giả đã tập trung tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta.
Ba khổ thơ cuối bài đã làm nổi bật vẻ đẹp của con người Việt Nam qua bao thăng trầm của lịch sử:
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."
Tác giả đã khẳng định rằng mỗi ngọn núi, con sông, hay hòn đảo,... đều in dấu linh hồn của bao lớp người đi trước. Bởi vậy, đất nước này còn là máu thịt của muôn triệu con người. Chính họ đã tạo dựng nên Đất Nước Việt Nam giàu truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời. Họ đã đặt tên cho núi sông và lưu truyền những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca,... Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm rút ra một kết luận vô cùng thấm thía:
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."
Để làm nên Đất Nước tươi đẹp như ngày hôm nay, chúng ta không thể không nhớ công lao to lớn của những con người bình dị, vô danh. Đó là hình ảnh người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái, chàng trai khoa khắc ngọn núi thành Cô Sơn, những người yêu nhau góp tên Sông Bến Hải, Gò Thiềm Thừ,... Tất cả những địa danh ấy đều được tạo dựng bởi bàn tay của những con người vô danh. Họ là những người nông dân cần cù, chịu khó. Tinh thần đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của họ cũng góp phần làm nên Đất Nước. Chỉ với một miếng trầu, ta đã có thể thấy được sự tích về nàng Âu Cơ và Lạc Long Quân kết duyên để rồi sinh ra trăm trứng, nở ra trăm con. Một miếng trầu đã gợi nhắc nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc Việt Nam. Hay đó còn là hình ảnh "tóc mẹ bới sau đầu" gợi ra nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Dù xa rời vòng tay mẹ nhưng mái tóc ấy vẫn được giữ gìn. Không chỉ vậy, gừng cay muối mặn là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm thủy chung, son sắt. Muối và gừng vốn là hai thứ gia vị quen thuộc giúp món ăn trở nên đậm đà hơn cũng giống như tình cảm gia đình luôn gắn bó, keo sơn. Bên cạnh đó, hạt gạo cũng được coi là biểu tượng cho nền văn minh lúa nước. Hạt gạo trắng ngần ẩn chứa biết bao mồ hôi, công sức của những người nông dân "một nắng hai sương". Và cả những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích cũng được ra đời để ghi nhớ công lao của họ.
Như vậy, ba khổ thơ cuối bài đã đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về Đất Nước. Đồng thời, nó còn khơi gợi lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Với giọng thơ vừa tha thiết, vừa trang nghiêm, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra khái niệm về Đất Nước thật gần gũi, thân thuộc. Không dừng lại ở đó, tác giả còn nêu lên trách nhiệm của mỗi con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, thế hệ trẻ sẽ cố gắng học tập để xứng đáng với những hy sinh của thế hệ đi trước.