Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn vào sự phát triển của truyện ngắn và tiểu thuyết ở giai đoạn đỉnh cao trong lịch sử văn học.
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, bút danh Nam Cao được lấy trong tên huyện và tên tổng nơi quê của ông là làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân tỉnh Hà Nam). Ông sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân bình thường. Gia đình Nam Cao rất đông anh em, ông là thứ ba trong gia đình. Cha mất sớm, Nam Cao sống nhờ vào cửa bà cô họ ngoại giàu có nhưng bà cô cay nghiệt thường xuyên mắng mỏ ông thậm chí còn từng muốn đuổi ông ra khỏi nhà. Vì vậy khi tròn 18 tuổi, Nam Cao đã dứt khoát bỏ quê ra đi làm gạo ở Sài Gòn rồi Hải Phòng để kiếm sống. Trong quá trình này ông vừa đi làm thêm vừa tự học để thi lấy bằng Thành chung. Sau đó, ông dạy học tư ở Hà Nội rồi về quê mở trường dạy học. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó ông vừa viết văn vừa tham gia các hoạt động cách mạng. Tháng 4/1945, Nam Cao rời Hà Nội về quê tham gia phong trào cách mạng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Sau đó, ông lại trở về Hà Nội tham gia cướp chính quyền và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông tiếp tục hoạt động văn nghệ và viết báo phục vụ kháng chiến. Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác vào vùng địch ở Liên khu III, Nam Cao hi sinh tại đồn Láng Soâm thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Trong suốt cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn trăn trở với hai vấn đề: Cách viết và mục đích viết. Với ông, bất cứ tác phẩm nào cũng phải đẹp và "miêu tả được thật chân xác, mạnh mẽ và thấm thía những điều mắt thấy tai nghe". Trước Cách mạng, do những hạn chế về tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ của ông còn mang tính chất cá nhân, tiêu cực nên các sáng tác của ông tập trung xoay quanh hai đề tài chính là bi kịch của những người tri thức nghèo và cuộc sống lay lắt của người nông dân nghèo. Tuy nhiên, ngay cả khi hướng ngòi bút tới tầng lớp tri thức như mình, Nam Cao vẫn nhận thấy bản thân họ cũng có nguồn gốc từ nông thôn nên ông không thể tách biệt hai đối tượng này thành hai mảng sáng tác riêng biệt. Chính vì thế mà ngay từ trước Cách mạng, ông đã bắt đầu có những trang viết cảm động về số phận người nông dân như: Chí Phèo, Lão Hạc,... Những tác phẩm này đều toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc đồng thời phản ánh hiện thực nông thôn Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Sau Cách mạng, do có sự thay đổi căn bản về tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ, Nam Cao đã tìm được mối liên hệ thống nhất giữa các vấn đề xã hội và vấn đề đời sống con người. Do đó, các sáng tác của ông sau Cách mạng tập trung vào việc xây dựng hình ảnh người lính dũng cảm, kiên cường; người cán bộ tận tâm, trách nhiệm với công việc; người nông dân cần cù, hăng hái tham gia lao động sản xuất và chiến đấu. Tất cả những nhân vật này đều có sự thống nhất giữa cái tốt và cái đẹp, giữa nhân cách cao cả và khả năng hòa nhập với cuộc sống xung quanh.