Anh Ngọc là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông từng là lính công binh làm nhiệm vụ mở đường trên tuyến Trường Sơn nên thơ ông mang đậm hơi thở của cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng đầy lạc quan, lãng mạn nơi núi rừng. Thơ Anh Ngọc giản dị, gần gũi mà giàu chất triết lí. Bài thơ “Thơ mùa xuân đọng lại giữa mùa thu” là một trong số đó.
Bài thơ bắt đầu bằng những dòng hồi tưởng về quá khứ hào hùng của dân tộc:
“Những vui buồn mãnh liệt và nông nổi
Của một thời liều lĩnh đam mê
Tôi vẫn giữ trong tim mình như cũ
Ngọn nguồn của mọi bài thơ mọi bài ca.”
Hình ảnh “những vui buồn mãnh liệt và nông nổi/ Của một thời liều lĩnh đam mê” gợi cho ta nhớ đến những ngày tháng chiến tranh ác liệt, khi mà bom đạn rình rập đe dọa mạng sống con người bất cứ lúc nào. Nhưng vượt qua tất cả, lớp lớp thanh niên thế hệ thời kì kháng chiến chống Mỹ đã xung phong ra trận miền Nam ruột thịt với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Ta đi tới”. Họ sẵn sàng đánh đổi tuổi trẻ, đánh đổi mạng sống để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ Quốc. Chính những năm tháng ấy, cùng với bao người trẻ khác, nhà thơ Anh Ngọc đã cầm súng chiến đấu, trở thành người lính công binh làm nhiệm vụ mở đường trên tuyến lửa Trường Sơn. Nhà thơ đã trực tiếp trải nghiệm, chứng kiến và chịu đựng những hiểm nguy, vất vả mà kẻ thù gieo xuống. Tất cả những kí ức ấy giờ đây chỉ còn là kỉ niệm, song chúng đã khắc sâu vào tâm hồn nhà thơ, trở thành ngọn nguồn của mọi bài thơ, mọi bài ca mà nhà thơ mãi mãi ngân nga.
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ thơ đầu, sang khổ thơ thứ hai, nhà thơ bộc bạch rõ hơn về “ngọn nguồn của mọi bài thơ mọi bài ca” mà mình viết:
“Bạn trong đời, anh nhìn thấy rất thấp tuổi
Hai mươi chân đi khểnh trên đất
Đám mây trời bay dưới ba lô hoa cỏ
Bên đường phút chốc hoá thành thơ.”
Đó là những người lính trẻ trung, sôi nổi, họ bước đi với dáng vẻ “chân đi khểnh trên đất”, vô tư, hồn nhiên. Họ mang theo ba lô với đầy hoa cỏ, là những bông hoa dại ven đường mà chẳng tiếc công nhặt nhạnh, nâng niu. Trong khoảnh khắc, “đám mây trời bay dưới ba lô hoa cỏ” đã khiến nhà thơ ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu của thiên nhiên, nhà thơ liên tưởng đến những vần thơ tuyệt đẹp được bật ra một cách tự nhiên nhất. Qua đó, ta thấy được tâm hồn nhạy cảm, trí tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật của nhà thơ.
Khép lại bài thơ, nhà thơ khẳng định lại một lần nữa về “ngọn nguồn của mọi bài thơ mọi bài ca” mà mình viết:
“Anh đứng hát một mình trong khe núi
Những vui buồn mãnh liệt và nông nổi
Của một thời lien lĩnh đam mê
Những vui buồn cứ đòi được hát lên
Trước đồng đội bạn bè
Không giấu đến cả thường tình và đột biến
Như cánh rừng bất chợ phù đầy hoa.”
Nhà thơ “đứng hát một mình trong khe núi”, hòa mình vào thiên nhiên, vào bầu trời đất nước quê hương. Từng câu chữ trong thơ ông đều chất chứa “những vui buồn mãnh liệt và nông nổi/ Của một thời liều lĩnh đam mê”. Đó là niềm hạnh phúc khi được cống hiến sức mình cho Tổ quốc, là nỗi đau đớn khi chứng kiến đồng đội ngã xuống, là sự tức giận khi kẻ thù tàn ác… Tất cả những cung bậc cảm xúc ấy, ông đều muốn cất thành lời ca, tiếng hát để ngợi ca non sông đất nước tươi đẹp, để bày tỏ nỗi xót xa khi chứng kiến đồng bào chịu cảnh bom rơi, đạn nổ và để phản đối, lên án tội ác của giặc.
Có thể nói, bài thơ “Thơ mùa xuân đọng lại giữa mùa thu” của nhà thơ Anh Ngọc đã giúp người đọc hiểu thêm về ngọn nguồn của những bài thơ mà tác giả đã viết. Đó là những vần thơ được khơi nguồn từ tình yêu Tổ quốc, từ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người lính đã anh dũng chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc.