i:
câu 1: Thể thơ của bài "Đi Thi Tự Vịnh" là thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ được viết theo thể thơ này vì nó tuân thủ những quy tắc cơ bản như:
* Số câu: 8 câu (bát cú).
* Số chữ trong mỗi câu: 7 chữ (thất ngôn).
* Luật bằng trắc: tuân thủ luật bằng trắc của thể thơ Đường luật.
* Niêm: các câu thơ niêm với nhau theo quy luật nhất định.
* Vần: sử dụng vần chân và vần lưng.
* Nhịp: nhịp 4/3 hoặc 2/2/3.
Bài thơ "Đi Thi Tự Vịnh" là một ví dụ điển hình cho thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, thể hiện sự tài hoa và tinh tế trong nghệ thuật thơ ca của Nguyễn Công Trứ.
câu 2: * Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm
câu 3: Bài thơ "Đi Thi Tự Vịnh" sử dụng hai biện pháp tu từ chính là liệt kê và ẩn dụ.
* Liệt kê: Tác giả liệt kê những hành động, suy nghĩ của mình khi quyết định đi thi: "đi không há lẽ trở về không", "cái nợ cầm thư phải trả xong". Liệt kê giúp nhấn mạnh sự quyết tâm, ý chí kiên cường của nhân vật trữ tình. Đồng thời, việc lặp lại cụm từ "không" tạo nên nhịp điệu dồn dập, thể hiện sự dứt khoát, quyết đoán trong lựa chọn của nhà nho Nguyễn Công Trứ.
* Ẩn dụ: Câu thơ "trong cuộc trần ai ai dễ biết, rồi ra mới biết mặt anh hùng" sử dụng ẩn dụ "trần ai" để chỉ cuộc sống đầy gian nan, thử thách. Ẩn dụ này làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu thơ, đồng thời khẳng định phẩm chất cao quý của người anh hùng, họ luôn sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thử thách để khẳng định bản thân.
Hai biện pháp tu từ được sử dụng một cách tinh tế, góp phần tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ. Chúng không chỉ làm tăng tính nghệ thuật mà còn giúp truyền tải hiệu quả nội dung tư tưởng của tác phẩm. Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường của con người trước sóng gió cuộc đời.
câu 4: Quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông". Hai câu thơ này cho thấy tác giả có một quan niệm rất mạnh mẽ và quyết tâm về việc sống có ý nghĩa, để lại dấu ấn trên đời. Tác giả tin rằng mỗi con người đều có trách nhiệm đối với xã hội, và cần phải cống hiến hết mình để tạo nên những giá trị tốt đẹp cho bản thân và cộng đồng. Quan niệm này cũng phản ánh tinh thần độc lập, tự do và khát vọng vươn lên của tác giả. Ông muốn khẳng định vị trí của mình trong cuộc sống, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mọi người.
câu 5: Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm hay, giàu ý nghĩa. Ông thường lấy đề tài từ cuộc sống xa hoa chốn quan trường, những thú vui nơi thôn quê, cảnh sắc của sông Hồng... Một trong số đó là bài thơ Đi thi tự vịnh. Qua bài thơ, chúng ta thấy rõ được quan niệm sống tích cực của ông: sống phải có mục tiêu, lí tưởng cao đẹp; sống phải có ích cho đời; sống phải được tôn vinh.
Bài thơ Đi thi tự vịnh như một lời động viên, khuyến khích bản thân của Nguyễn Công Trứ trước khi bước vào kì thi. Đồng thời, qua đó còn thể hiện phong cách sống tích cực, lạc quan, đầy bản lĩnh của ông.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
"Đi không há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư quyết trả xong."
Hai câu thơ gợi lên hình ảnh người sĩ tử trên đường tiến kinh ứng thí. Trước kì thi, chắc hẳn người đi thi nào cũng mang trong mình quyết tâm phải đỗ đạt cao để có một tương lai rộng mở, tươi sáng. Và Nguyễn Công Trứ cũng vậy. Ông tự nhủ nếu đã đi thì không thể "trở về không" được, mà phải cố gắng học tập, ôn luyện chăm chỉ để "cái nợ cầm thư" này được hoàn trả sớm nhất. Hai từ "há lẽ" vừa thể hiện được quyết tâm của người trí thức trong việc học hành, đỗ đạt để làm rạng danh gia đình, quê hương, vừa thể hiện được thái độ nghiêm túc, ý chí kiên cường của người đi thi.
Ở hai câu thực, tác giả tiếp tục bộc lộ những suy tư, trăn trở của mình:
"Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt,
Dở đem thân thế hẹn tang bồng."
Tác giả mong muốn được rời xa chốn quan trường, sống một cuộc sống thanh nhàn, vui vẻ bên ruộng vườn, hòa hợp với thiên nhiên. Tuy nhiên, vì còn "còn chút lòng với quê hương", vẫn còn mang trong mình hoài bão lớn nên đành tạm gác lại sở thích cá nhân để dấn thân vào chốn quan trường. Từ "ráp" được đặt ở đầu câu cho ta cảm nhận được sự dứt khoát, mạnh mẽ của người trí thức. Họ đã chọn lựa con đường đi cho bản thân và quyết tâm theo đuổi nó.
Đến với hai câu luận, tác giả viết:
"Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Chẳng nên mảnh giấy lộn vùi chôn."
Câu thơ thể hiện sự dấn thân của người trí thức vào con đường công danh, sự nghiệp. Họ đã lựa chọn con đường đầy chông gai, thử thách này thì ắt hẳn phải có đủ bản lĩnh để đương đầu với nó. Tác giả sử dụng cụm từ "tang bồng" để nói về chí nam nhi, chí làm trai trong thời đại phong kiến. Các trang nam nhi phải sống có lý tưởng, có hoài bão, phải lập công danh để lại tiếng vang cho muôn đời chứ không thể sống một cuộc đời nhạt nhòa, vô vị được.
Ở hai câu kết, tác giả viết:
"Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng."
Đây là lời khẳng định của tác giả về bản thân mình. Ông tự hào về những đóng góp của bản thân cho triều đình, cho đất nước. Ông cũng tự tin rằng dù trải qua bao khó khăn, gian khổ, cuối cùng ông cũng sẽ chứng minh được tài năng, phẩm chất của mình, sẽ được mọi người công nhận và biết đến.
Qua bài thơ Đi thi tự vịnh, chúng ta thấy được quan niệm sống tích cực, lạc quan của Nguyễn Công Trứ. Ông khuyên mọi người hãy nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục tiêu của mình. Đồng thời, ông cũng nhắc nhở mọi người hãy sống có trách nhiệm, cống hiến hết mình cho xã hội, để lại dấu ấn cho đời.
ii: