Lê Hữu Trác là một danh y lỗi lạc, giàu lòng yêu nước thương dân, có văn tài và thi tài. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự”, ông đã ghi lại tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến được chúa Trịnh Sâm triệu ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” thật hay, nó giống như một bức tranh mô tả sinh động cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, đồng thời cũng là lời phê phán nhẹ nhàng mà thâm thía của tác giả trước cuộc sống đó.
“Thượng kinh kí sự” gồm 73 mẩu chuyện, mỗi chuyện đều mang tính chất hài hước châm biếm hoặc bi hài. Toàn bộ tác phẩm là một bức tranh hiện thực về chế độ phủ chúa thối nát thời ấy. Với ngòi bút kí sự đặc sắc, tác giả đã tái hiện chân thực cuộc sống đế vương của chúa Trịnh Sâm, và phơi bày những mặt trái của xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta thấy được quang cảnh xa hoa ở phủ chúa, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa và thế tử. Đồng thời, tác giả cũng kín đáo bộc lộ thái độ của mình trước cuộc sống đó.
Trước tiên, quang cảnh trong phủ chúa hiện lên qua cái nhìn của tác giả. Để bước chân vào phủ chúa, tác giả phải trải qua bao cửa gác, vườn hoa, nhà thủy, cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến tác giả phải thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Quả đúng như vậy! Cảnh vật sang trọng, lộng lẫy đến mức người bình thường ít ai có được. Bước vào phủ chúa, tác giả lại ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Mọi thứ đều toát lên vẻ giàu sang, quyền quý. Đồ dùng để tiếp khách ăn uống toàn là “những mâm vàng, chén bạc” và “đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Người bình thường ít ai được đặt chân vào đây, hơn nữa họ cũng chẳng bao giờ được chạm vào những thứ quý giá ấy. Không chỉ đồ vật mà ngay cả con người cũng vậy. Từ người truyền mệnh đến kẻ hầu hạ đều có bề ngoài sang trọng, cử chỉ, lời nói uy nghi, tôn kính. Riêng vị thế tử nhỏ tuổi cũng được ngự trên sập vàng, cạnh đó là cái ghế rồng bằng ngọc bích. Bên cạnh đó, tác giả còn được chứng kiến cảnh bác sĩ chữa bệnh cho thế tử. Căn phòng diễn ra việc khám chữa bệnh được canh phòng cẩn thận, chật ních kẻ hầu người hạ. Cách khám bệnh cũng thật kì lạ, thế tử mặc áo lụa đỏ ngồi trong khung cửi, có hai người đứng hầu hai bên. Trước khi khám bệnh cho thế tử, tác giả phải lạy bốn lạy trước chiếc ghế rồng. Qua những gì đã chứng kiến, tác giả cảm nhận đây là chốn cung cấm, nơi mà vua chúa ngự trị và người dân chỉ dám đứng xa cúi lạy, tôn thờ.
Quang cảnh trong phủ chúa và cung cách sinh hoạt ở đây đã cho thấy sự lộng quyền của nhà chúa, sự suy vong của triều đại phong kiến và sự thống khổ của người dân. Phủ chúa vốn dĩ là nơi để quản lí đất nước, lập kế sách giúp vua cha lo cho cuộc sống của muôn dân nhưng nay lại chỉ xoay quanh việc ăn chơi hưởng lạc, khiến đất nước ngày càng lụi bại. Chúa Trịnh Sâm vốn là bậc quân vương, đứng đầu thiên hạ nhưng lại để bọn nịnh thần che mắt, không quan tâm tới việc triều chính, khiến nhân dân lầm than, đói khổ. Còn biết bao nhiêu việc khác nữa nhưng chúa nào có màng tới. Như vậy, phủ chúa đâu khác gì chỗ nghỉ ngơi, ăn chơi của vua chúa. Nó chỉ là nơi để bọn chúng thỏa mãn cuộc sống xa hoa, trụy lạc. Tất cả đều do chúng tự tạo nên chứ không phải do người khác ban tặng. Vì thế, chúng mới nhanh chóng rơi vào vũng bùn của sự suy vong.
Tác giả đã khéo léo mượn lời nói của cô gái bán thuốc để bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống xa hoa ở phủ chúa: “Người ta thường nói: Nhà đại gia trâm anh, tường đông ong bướm tường tây gió mát; Chẳng như ông cha tôi, tường cao hoa che, cửa đóng then cài.” Lời nhận xét ấy quả không sai!
Như vậy, bằng ngòi bút kí sự đặc sắc, Lê Hữu Trác đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa ở phủ chúa. Qua đó, tác giả cũng kín đáo bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống ấy. Đó cũng là lời phê phán nhẹ nhàng mà thâm thía của tác giả trước sự suy vong tất yếu của một triều đại.