câu 14: Câu trả lời đúng là a. Đại Nam thực lục. Đây là một trong những công trình sử học và địa lý ghi chép về cương vực, lãnh thổ và hoạt động thực thi, bảo vệ chủ quyền của nhà nước phong kiến Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
câu 15: Câu trả lời đúng là: a. đội hoàng sa, bắc hải. Tổ chức này có nhiệm vụ khai thác sản vật và thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
câu 16: Dưới thời vua Minh Mạng, hoạt động khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện qua việc b. dựng miếu, trồng cây ở một số đảo. Vua Minh Mạng đã cho xây dựng miếu và dựng bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, thể hiện rõ ý thức và quyết tâm của triều đình trong việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
câu 17: B. Khảo sát đo vẽ bản đồ.
Dưới thời kỳ nhà Nguyễn, việc khảo sát và đo vẽ bản đồ được nhà nước quan tâm thực hiện để xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các hoạt động này bao gồm việc cắm mốc chủ quyền và vẽ bản đồ thể hiện rõ ràng vị trí của hai quần đảo này thuộc lãnh thổ Việt Nam.
câu 18: Nội dung không phản ánh đúng nhiệm vụ của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải dưới triều Nguyễn là: c. ngăn tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán.
Hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ như khai thác sản vật biển, đo đạc và cắm dấu mốc tại nơi khảo sát, cũng như dựng miếu thờ và trồng cây ở một số đảo. Tuy nhiên, việc ngăn tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán không phải là nhiệm vụ chính của họ.
câu 19: Trong những năm 30 của thế kỷ XX, chính quyền Pháp đại diện cho Việt Nam trong quan hệ đối ngoại đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua việc c. xây dựng trạm khí tượng.
câu 20: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua việc: a. thành lập huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
câu 21: Từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, quốc gia đại diện cho quyền lợi của Việt Nam và tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là d. Pháp.
câu 22: Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Giơnevơ (1954), chính quyền Sài Gòn đã tiếp quản và khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó, câu trả lời đúng là: a. chính quyền Sài Gòn.
câu 23: Câu trả lời đúng là: a. chủ động tấn công vũ trang.
Nhà nước Việt Nam thường áp dụng các biện pháp hòa bình như tuyên truyền chủ quyền biển, đảo, đàm phán ngoại giao và xây dựng lực lượng quản lý biển để bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Tấn công vũ trang không phải là biện pháp được áp dụng trong trường hợp này.
câu 24: Câu trả lời là c. chủ động tấn công ngăn chặn các nước có ý đồ xâm phạm biển. Đây không phải là hoạt động của Việt Nam để bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, vì Việt Nam luôn theo đuổi giải pháp hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển đảo.
câu 25: Chủ trương nhất quán của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và đối ngoại là xây dựng một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Cụ thể, Việt Nam hướng tới:
1. Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi: Việt Nam muốn thiết lập quan hệ với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, dựa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
2. Củng cố quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa: Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước anh em trên bán đảo Đông Dương.
3. Tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế: Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế và phong trào không liên kết, nhằm thúc đẩy hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển.
4. Đại đoàn kết dân tộc: Việt Nam coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Đối ngoại hòa bình, hữu nghị: Chính sách đối ngoại của Việt Nam luôn hướng tới hòa bình, ổn định và phát triển, đồng thời thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt, chủ động, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia.
Chủ trương này thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.