pt bài báo kính cảnh giới

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của tuongvi2008
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

07/05/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Kính cảnh giới" của Nguyễn Trãi thể hiện tâm hồn thanh cao, tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của tác giả. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết.

* Đề: Hai câu đầu tiên miêu tả khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, trong lành ở Côn Sơn. Tác giả sử dụng những hình ảnh cụ thể như "cây cối xanh tươi", "hoa lá thơm ngát", "tiếng chim hót líu lo" để gợi lên vẻ đẹp thanh bình, yên ả của chốn quê hương. Qua đó, ta thấy được sự gắn bó mật thiết giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng thể hiện niềm vui sướng, tự do khi được sống hòa mình vào thiên nhiên.
* Thực: Hai câu tiếp theo, tác giả bộc lộ tâm trạng nhàn nhã, ung dung của bản thân. Hình ảnh "nằm dưới bóng mát", "ngắm nhìn mây trời" cho thấy sự thư thái, an nhiên trong tâm hồn nhà thơ. Đồng thời, qua việc so sánh cuộc đời ngắn ngủi với dòng sông chảy xiết, tác giả muốn khẳng định giá trị của sự tĩnh lặng, thanh thản trong tâm hồn.
* Luận: Hai câu luận tiếp tục phát triển ý tưởng về sự thanh tao, thoát tục của con người trước thiên nhiên. Hình ảnh "lòng không vướng bận", "gió trăng đầy đủ" thể hiện sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế gian, hướng đến cuộc sống thanh cao, thuần khiết.
* Kết: Hai câu cuối cùng khép lại bài thơ bằng lời khẳng định về lẽ sống cao đẹp của bậc đại nhân. Tác giả cho rằng chỉ cần giữ vững khí tiết, tu dưỡng đạo đức thì dù có gặp khó khăn, thử thách cũng không thể làm lung lay ý chí.

Tóm lại, bài thơ "Kính cảnh giới" của Nguyễn Trãi là một tác phẩm giàu ý nghĩa, thể hiện tâm hồn thanh cao, tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của tác giả. Bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ ca Việt Nam.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
khongquen

07/05/2025

Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong "Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong "Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. "Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.

Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

"Rồi bóng mát thuở ngày trường”

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng" đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào ”, vòng "danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường" là ngày dài. "Rồi" là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.

Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá "đùn đùn " lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

"Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”

Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.

Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:

“Lại có hoa hoè chen bóng lục”

("Cảnh hè" – Ức Trai)

“Có thuở ngày hè trương tán lục,

Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”

("Hoè" – Ức Trai)

"Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,

Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè ”

("Vịnh cảnh mùa hè" – "Hồng Đức quốc âm thi tập").

“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây,

Choi chói hoa vàng đưa gió

Đùn đùn tán lục gương mây’’.

("Màn hoè" – Lê Thánh Tông)

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, "phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:

“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ”

("Mùa hè")

“Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, "lửa lựu luống thè be" đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ "Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.

Câu 4 nói về sen: "Hồng liên trì đã rịn mùi hương". “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịch mùi hương” tức là đã cuối hè.

Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:

“Tá lòng thanh vị núc nác,

Vun đất ải lãnh mồng tơi”

(Ngôn chí – số 9)

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen”

("Thuật hứng" – số 24)

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói "lao xao " của đời thường:

“Lao xao chợ cá làng ngư phù,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".

Sau khi tả hoè màu "lục”, lựu "phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. "Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. "Dắng Dỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương”

Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:

“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,

Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve

(Vịnh cảnh mùa hè).

Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành "cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.

Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

"Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương’’.

"Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc '‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.

Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:

"Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào "

(Mạn thuật – số 13)

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

("Thuật hứng" – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Sabo(サボ)

07/05/2025

1. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí:


  • Hoàn cảnh: Bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi sống ẩn dật ở Côn Sơn sau khi cáo quan về trí sĩ (khoảng năm 1440-1442). Đây là giai đoạn ông cảm thấy bất mãn với triều đình, lui về sống hòa mình với thiên nhiên.
  • Vị trí: Nằm trong tập "Bảo kính dư huấn" (Gương báu răn dạy đời), bài thơ thể hiện một phương diện quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi: sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đồng thời ẩn chứa những suy tư về cuộc đời và nhân thế.

2. Nội dung bài thơ:

Bài thơ khắc họa một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thanh bình và thể hiện tâm trạng thư thái, ung dung của nhà thơ khi sống giữa cảnh vật đó. Đồng thời, ẩn sau vẻ bề ngoài tĩnh lặng ấy là tấm lòng ưu ái, lo lắng cho dân cho nước của một người từng trải.


  • Hai câu đề:
Dãi dầu gió dập sương vùi, Ngán ngẩm công danh, thú lại vui.

  • "Dãi dầu gió dập sương vùi": Hình ảnh gợi tả cuộc đời từng trải, gian nan, vất vả của Nguyễn Trãi trong chốn quan trường. Những khó khăn, thử thách như "gió dập", "sương vùi" đã in dấu lên cuộc đời ông.
  • "Ngán ngẩm công danh, thú lại vui": Sự chán chường, mệt mỏi với danh lợi, với những bon chen nơi triều đình được thể hiện rõ. Thay vào đó, nhà thơ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống ẩn dật, hòa mình với thiên nhiên. Câu thơ thể hiện sự lựa chọn dứt khoát của Nguyễn Trãi: từ bỏ danh lợi để tìm về với "thú" thanh cao.
  • Bốn câu thực:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. 1  
  • Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, trong trẻo và đầy chất thơ:

  • "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo": Không gian được mở ra với hình ảnh ao thu tĩnh mịch, vắng lặng. Nước ao trong veo đến mức có thể nhìn thấu đáy, gợi cảm giác thanh khiết, tinh khôi. Từ "lạnh lẽo" không gợi sự cô đơn, buồn bã mà nhấn mạnh sự tĩnh tại, vắng vẻ của cảnh vật.
  • "Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo": Hình ảnh con thuyền câu nhỏ bé, đơn sơ trên mặt ao càng làm tăng thêm vẻ yên bình, tĩnh mịch của bức tranh. Nó cũng gợi hình ảnh một cuộc sống giản dị, thanh đạm của người ẩn sĩ.
  • "Sóng biếc theo làn hơi gợn tí": Những gợn sóng nhẹ nhàng, lăn tăn trên mặt nước biếc tạo nên một chuyển động nhẹ nhàng, uyển chuyển, làm cho bức tranh tĩnh tại trở nên sống động hơn. "Làn hơi" cho thấy sự nhẹ nhàng, tinh tế của chuyển động.
  • "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo": Hình ảnh chiếc lá vàng rơi nhẹ nhàng trong gió thu là một nét chấm phá quen thuộc của cảnh thu. Âm thanh "vèo" gợi tả sự nhanh chóng, nhẹ nhàng của chiếc lá lìa cành.
  • Bốn câu thực đã tạo nên một bức tranh thu tuyệt đẹp, hài hòa giữa tĩnh và động, giữa màu sắc và đường nét. Nó không chỉ là cảnh vật đơn thuần mà còn phản ánh tâm hồn thanh thản, hòa mình vào thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
  • Hai câu luận:
Bùi ngùi nhớ nước non nhà, Lặng lẽ cúi xem cảnh vật qua.
  • Hai câu thơ chuyển mạch, từ việc miêu tả cảnh vật sang thể hiện tâm trạng sâu kín của nhà thơ:

  • "Bùi ngùi nhớ nước non nhà": Dù sống ẩn dật, tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn luôn hướng về đất nước, về vận mệnh của dân tộc. Từ "bùi ngùi" diễn tả một nỗi nhớ da diết, âm ỉ, một nỗi lo lắng thầm kín cho giang sơn xã tắc. Nó cho thấy trách nhiệm công dân, tấm lòng ưu ái của một người từng gánh vác trọng trách quốc gia vẫn luôn thường trực trong trái tim ông.
  • "Lặng lẽ cúi xem cảnh vật qua": Hành động "lặng lẽ cúi xem" thể hiện sự trầm tư, suy ngẫm của nhà thơ trước cảnh vật. Việc quan sát thiên nhiên không chỉ mang lại niềm vui thú mà còn là cách để ông suy tư về lẽ đời, về sự thay đổi của thời thế. "Cảnh vật qua" có thể hiểu là sự trôi chảy của thời gian, sự thay đổi của cuộc đời.
  • Hai câu luận cho thấy sự giằng xé trong tâm hồn Nguyễn Trãi: một mặt muốn tìm sự thanh thản trong thiên nhiên, mặt khác vẫn không nguôi nỗi lo lắng cho đất nước.
  • Hai câu kết:
Ngư ông dạo thú ngoài vòng thế, Cửa động rêu phong, khách đến nhà.
  • Hai câu thơ khép lại bài thơ bằng một hình ảnh ẩn dụ và một chi tiết đời thường:

  • "Ngư ông dạo thú ngoài vòng thế": Hình ảnh "ngư ông" (ông lão đánh cá) thường được sử dụng trong văn chương để chỉ những người sống ẩn dật, thoát khỏi vòng danh lợi. Nguyễn Trãi tự ví mình như một ngư ông đang tận hưởng thú vui thanh nhàn nơi "ngoài vòng thế" - bên ngoài những bon chen, ràng buộc của xã hội.
  • "Cửa động rêu phong, khách đến nhà": Hình ảnh "cửa động rêu phong" gợi tả một nơi ở ẩn tịch mịch, hoang sơ, đã lâu không có người lui tới. Sự xuất hiện của "khách đến nhà" phá vỡ sự tĩnh lặng đó, mang đến một chút ấm áp, tình người. "Khách" ở đây có thể là bạn bè tri kỷ, những người cùng chí hướng hoặc cũng có thể là một hình ảnh tượng trưng cho sự quan tâm của thế gian, của triều đình (dù ông đã cáo quan). Câu thơ thể hiện một sự cởi mở, sẵn sàng đón nhận những mối giao hảo.

3. Nghệ thuật:


  • Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật: Bài thơ tuân thủ chặt chẽ các quy tắc về niêm luật, đối, vần của thể thơ này, tạo nên sự hài hòa, cân đối trong cấu trúc và âm điệu.
  • Sử dụng từ ngữ giản dị, trong sáng: Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi trong bài "Kính Cảnh Giới" rất tự nhiên, gần gũi với đời thường nhưng vẫn giàu sức gợi cảm.
  • Bút pháp tả cảnh tinh tế: Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh thu sống động, có màu sắc, đường nét, âm thanh và cả sự chuyển động nhẹ nhàng.
  • Kết hợp hài hòa giữa tả cảnh và抒情 (trữ tình): Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn lồng ghép một cách tự nhiên những cảm xúc, suy tư sâu kín của nhà thơ. Cảnh và tình hòa quyện, bổ sung cho nhau.
  • Sử dụng hình ảnh ẩn dụ: Hình ảnh "ngư ông" là một ẩn dụ cho cuộc sống ẩn dật, thoát tục của nhà thơ.
  • Sự chuyển mạch linh hoạt: Bài thơ có sự chuyển đổi tự nhiên từ việc miêu tả cảnh thu sang thể hiện nỗi nhớ nước, rồi cuối cùng là hình ảnh cuộc sống hiện tại của nhà thơ.

4. Ý nghĩa:

Bài thơ "Kính Cảnh Giới" không chỉ là một bức tranh thu tuyệt đẹp mà còn là một tiếng lòng chân thật của Nguyễn Trãi. Qua đó, chúng ta thấy được:


  • Tâm hồn thanh cao, yêu thiên nhiên: Nguyễn Trãi tìm thấy niềm vui, sự thanh thản trong cuộc sống hòa mình với thiên nhiên.
  • Tấm lòng ưu ái, lo lắng cho dân cho nước: Dù đã cáo quan, ông vẫn không nguôi nỗi nhớ nước, lo lắng cho vận mệnh của đất nước.
  • Khát vọng về một cuộc sống thanh bình, giản dị: Hình ảnh ngư ông thể hiện ước muốn thoát khỏi vòng danh lợi, tìm về với cuộc sống tự do, tự tại.
  • Vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Trãi: Bài thơ thể hiện một con người có tâm hồn cao đẹp, vừa có sự ung dung tự tại của người ẩn sĩ, vừa có trách nhiệm sâu sắc với đất nước.

Tóm lại, "Kính Cảnh Giới" là một bài thơ đặc sắc, thể hiện tài năng nghệ thuật và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bức tranh thu tĩnh lặng mà sâu lắng đã trở thành một biểu tượng cho sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đồng thời ẩn chứa những suy tư sâu sắc về cuộc đời và lòng yêu nước thầm kín của một bậc vĩ nhân.



Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
2 bình luận
Bình luận
avatar
level icon

khongquen

07/05/2025

avatar
level icon

khongquen

07/05/2025

Sabo(サボ)làm trò gì vậy hả........

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved