câu 1. Thể loại: Tùy bút
Phương thức biểu đạt: Tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
Nội dung: Đoạn trích khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của Sông Đà đồng thời ca ngợi tài năng của người lái đò sông Đà.
câu 2. Trong bài "Người lái đò Sông Đà", Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, tạo nên bức tranh hùng vĩ về vẻ đẹp hoang sơ và sức mạnh của thiên nhiên Tây Bắc. Tác giả thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo khi khắc họa hình tượng người lái đò bằng cách so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, làm nổi bật phẩm chất kiên cường, dũng cảm, mưu trí, khéo léo của người lái đò. Qua đó, tác giả ca ngợi tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của con người Việt Nam trước thử thách của tự nhiên.
Phân tích:
* Hình ảnh "con sông Đà": Được ví như một "kẻ thù số một" với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù nham hiểm và xảo quyệt". Hình ảnh này gợi lên sự hung bạo, tàn bạo của thiên nhiên, đồng thời nhấn mạnh sự khó khăn, nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt.
* Hình ảnh "thuyền sáu bơi chèo": Được ví như một "chiến xa", "pháo hạm" hay "một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Hình ảnh này thể hiện tốc độ, sự linh hoạt và sức mạnh của chiếc thuyền, đồng thời tôn vinh kỹ năng điều khiển thuyền của người lái đò.
* Hình ảnh "sông Đà": Được ví như một "bà già thất thường", "hay cáu gắt", "lắm bệnh lắm chứng". Hình ảnh này thể hiện sự thay đổi thất thường, khó lường của dòng sông, đồng thời nhấn mạnh sự nguy hiểm tiềm ẩn của thiên nhiên.
* Hình ảnh "cái hút nước": Được ví như một "cái giếng bê tông", "xanh lơ", "xanh lục", "xanh dương", "xanh da trời", "xanh thẳm"... Hình ảnh này thể hiện sự đa dạng, biến đổi màu sắc của dòng sông, đồng thời gợi lên sự nguy hiểm, dễ gây nhầm lẫn cho người lái đò.
* Hình ảnh "đá": Được ví như "những viên gạch khổng lồ", "những viên đạn đồng", "những khẩu pháo", "những khẩu súng đại bác"... Hình ảnh này thể hiện sự hung bạo, tàn bạo của thiên nhiên, đồng thời nhấn mạnh sự nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt.
* Hình ảnh "nước": Được ví như "một tấm gương phẳng", "một tấm lụa đào", "một tấm kính", "một tấm thép"... Hình ảnh này thể hiện sự đa dạng, biến đổi của dòng sông, đồng thời gợi lên sự nguy hiểm, dễ gây nhầm lẫn cho người lái đò.
* Hình ảnh "người lái đò": Được ví như một "tay lái điêu luyện", "một người thợ săn lão luyện", "một vị tướng tài ba", "một người lính dũng cảm"... Hình ảnh này thể hiện sự tài hoa, bản lĩnh, kinh nghiệm dày dặn của người lái đò, đồng thời tôn vinh phẩm chất kiên cường, dũng cảm, mưu trí, khéo léo của người lái đò.
Tác dụng:
* Các biện pháp tu từ giúp cho việc miêu tả trở nên sinh động, hấp dẫn, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
* Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt, khiến cho câu văn thêm phần uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu tính nhạc điệu.
* Nhấn mạnh vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên Tây Bắc, đồng thời khẳng định sự tài hoa, bản lĩnh của người lái đò.
* Ca ngợi tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của con người Việt Nam trước thử thách của tự nhiên.
câu 4: Trong đoạn trích "Cuộc sống của người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân, tác giả sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, miêu tả chi tiết và cảm xúc sâu sắc để tạo nên bức tranh hùng vĩ về cuộc sống của người lái đò trên dòng sông Đà. Đoạn trích cho thấy sự dũng cảm, kiên cường và lòng yêu nghề của người lái đò, đồng thời phản ánh vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.
Phân tích:
* Chất tùy bút - ký: Tác giả sử dụng ngôn ngữ tự do, linh hoạt, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ riêng tư của bản thân. Ví dụ: "Nhìn cái thiên nhiên âáy, có những lúc thấy nó không “thơ đời đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình." Câu văn này thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả về cuộc sống của người lái đò, đồng thời gợi mở cho độc giả suy ngẫm về ý nghĩa của việc vượt qua khó khăn, thử thách.
* Yếu tố hư cấu: Mặc dù đây là một bài viết thực tế, nhưng tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật để làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và ấn tượng hơn. Ví dụ: "Cưỡi lên thác sông đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá." Hình ảnh so sánh "cưỡi hổ" và "hồng hộc tế mạnh" giúp người đọc dễ dàng hình dung sức mạnh khủng khiếp của dòng thác, đồng thời tôn vinh tinh thần bất khuất, kiên cường của người lái đò.
* Phi hư cấu: Đoạn trích chủ yếu dựa trên những trải nghiệm thực tế của tác giả khi đi dọc sông Đà. Các chi tiết về cuộc sống của người lái đò, về địa hình, về dòng chảy của sông Đà đều được mô tả rất chân thực, mang tính xác thực cao. Ví dụ: "Vượt qua trùng vi thạch trận vòng thứ nhất, ông đò ghì cương laí, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá âý." Đây là những chi tiết cụ thể, rõ ràng, phản ánh trực tiếp cuộc sống của người lái đò trên dòng sông Đà.
Tóm lại, đoạn trích "Cuộc sống của người lái đò Sông Đà" là một ví dụ điển hình cho phong cách viết tùy bút - kí của Nguyễn Tuân. Tác giả kết hợp hài hòa giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu, tạo nên một bức tranh sinh động, đầy cảm xúc về cuộc sống của người lái đò trên dòng sông Đà. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng dũng cảm và tinh thần lạc quan của con người trước những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống.
câu 5. Trong đoạn trích "Cuộc sống của người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân sử dụng biện pháp tu từ so sánh để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà. Cụ thể, tác giả so sánh sông Đà với "một thứ kẻ thù số một" nhằm nhấn mạnh sức mạnh tàn bạo, hung dữ của dòng chảy. Hình ảnh này tạo nên ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, khiến họ cảm nhận được sự nguy hiểm tiềm ẩn của sông Đà. Đồng thời, việc so sánh sông Đà với "kẻ thù" cũng góp phần làm nổi bật bản lĩnh kiên cường, dũng cảm của người lái đò khi đối mặt với thử thách.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phép so sánh để miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Sông Đà được ví như "dòng sữa mẹ ngọt ngào" hay "nàng tiên nữ xinh đẹp" mang đến cảm giác ấm áp, dịu dàng. Những hình ảnh so sánh này giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự đa dạng, phong phú của dòng sông Đà, đồng thời khẳng định giá trị thiêng liêng của nó đối với con người.
câu 6. Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả thật là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có lắm lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc ta thấy nó "không thơ đời Đường" nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà. […] Nhưng trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rôì, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
(Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.189-190).
Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn con người của nhà văn Nguyễn Tuân. [/INST] Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên tây bắc có lắm lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc ta thấy nó "không thơ đời Đường" nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà. […] Nhưng trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rôì, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Cứ phá cái trùng vi thạch trận vòng thứ hai này xong, thì thế và lực của người lái đò đã khác trước. Nó tạo thêm nhiều cửa tử để kêu gọi con thuyền vào, đồng thời cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
(Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.189-190).
Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
câu 1: Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn được xem là một nghệ sĩ về ngôn từ. Dưới ngòi bút của ông, câu văn trở nên uyển chuyển, linh hoạt, phong phú về phương thức biểu đạt. Đoạn trích "Cuộc sống của người lái đò sông Đà" là minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Đoạn trích kể về cuộc sống của người lái đò sông Đà - một nghề vô cùng vất vả và nguy hiểm. Người lái đò phải đối mặt với những thử thách ghê gớm của thiên nhiên Tây Bắc. Họ phải vượt qua hàng ngàn con thác dữ dội, hung bạo, phải chống chọi với những tảng đá khổng lồ, những xoáy nước khủng khiếp. Nhưng họ vẫn kiên cường, dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đưa khách sang sông an toàn.
Yếu tố tự sự được thể hiện rõ nét qua việc tác giả kể lại cuộc sống của người lái đò sông Đà. Tác giả đã sử dụng ngôi kể thứ nhất, xưng "tôi", để trực tiếp kể lại những trải nghiệm của bản thân khi làm nghề lái đò. Qua đó, người đọc có thể hình dung được cuộc sống vất vả, nguy hiểm của người lái đò, đồng thời cũng cảm nhận được tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Ví dụ, tác giả viết: "Tôi đã từng lái đò trên sông Đà nhiều năm. Tôi biết rõ từng khúc sông, từng hòn đá, từng con thác. Tôi đã từng trải qua bao nhiêu lần vượt thác dữ, bao nhiêu lần thoát khỏi lưỡi hái của tử thần."
Yếu tố trữ tình được thể hiện qua giọng văn giàu chất thơ, lãng mạn của tác giả. Tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,... để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của sông Đà, đồng thời cũng ca ngợi phẩm chất cao quý của người lái đò. Ví dụ, tác giả viết: "Sông Đà cuồn cuộn chảy như một con ngựa bất kham. Nó gầm thét, gào thét, tung bọt trắng xóa. Những tảng đá khổng lồ như những con quái vật khổng lồ, sừng sững chặn ngang dòng sông."
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho đoạn trích. Đoạn trích không chỉ tái hiện chân thực cuộc sống của người lái đò sông Đà, mà còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.
Tóm lại, đoạn trích "Cuộc sống của người lái đò sông Đà" là một tác phẩm hay, giàu ý nghĩa. Yếu tố tự sự và trữ tình đã được tác giả khai thác một cách hiệu quả, tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống của người lái đò sông Đà, đồng thời cũng thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.
câu 2: Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả thật là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có lắm lúc "trở mặt" hung dữ, gây bao khó khăn cho con người. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có lúc ta thấy nó chẳng "thơ đời Đường" nhàn hạ chút nào, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đây cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà.
[...] Nhưng trên cái thuyền sáu bơi cheò, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm laí. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai. Ở vòng thứ hai, độ khó của thạch trận tăng lên vì cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Cửa sinh nằm giữa lòng sông và bị bọn đá hậu vệ canh giữ. Còn cửa tử thì nước sóng luồng, phối hợp với đá, với sóng gió, với cuồn cuộn gió ganh nhau gào thét. Nhưng ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Với tinh thần dũng cảm và sự hiểu biết sâu sắc qui luật của dòng nước, ông lái đò đã đưa con thuyền vượt qua mọi con sóng dữ, đưa con thuyền thoát khỏi hiểm nguy. Ông lái đò đã từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò. Ông lái đò còn có một phẩm chất rất đáng quý và cần thiết của một người nghệ sĩ. Đó là không bao giờ tự thoả mãn với những gì mình đã đạt được. Sau khi đưa con thuyền vượt qua ghềnh thác, ông lái đò đã nói với các con trai: Bây giờ chúng ta xuôi dòng. Hoa tươi cả, nước chảy cả, thôi đốt nấu nướng đi chứ! Lời nói của ông lái đò thể hiện niềm vui và sự phấn chấn của người làm chủ thiên nhiên.
Trong cuộc sống hòa bình, người đọc dễ quên đi sự vất vả trong lao động để duy trì sự sống. Khi đọc Người lái đò Sông Đà, người đọc mới nhận ra rằng đằng sau sự hùng vĩ của thiên nhiên là nỗi nhọc nhằn của người lái đò. Nguyễn Tuân đã khắc hoạ vẻ đẹp của người lao động chân chính và ca ngợi tài năng, sức mạnh, lòng dũng cảm, nghị lực của con người trong công cuộc chế ngự thiên nhiên.
Truyền thống dân tộc là hệ thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, quan niệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần định hình bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Truyền thống dân tộc đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, truyền thống dân tộc giúp củng cố tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm đối với quê hương đất nước. Nó khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tạo động lực cho mỗi người dân phát huy sức mạnh nội tại, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống dân tộc cũng góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tạo nên bản sắc riêng biệt của mỗi dân tộc. Việc kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc giúp mỗi người dân Việt Nam hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc mình, từ đó có ý thức tôn trọng và bảo tồn những giá trị đó. Ngoài ra, truyền thống dân tộc còn là nguồn động viên, khích lệ tinh thần, giúp mỗi người dân vượt qua khó khăn, thử thách, kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Mỗi người dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.