13/05/2025
13/05/2025
Han Rin ễ hội là một phần quan trọng của tâm hồn dân tộc, phản ánh những nét đẹp của văn hóa truyền thống Việt Nam. Mùa xuân đến, hoa khoe sắc, không khí tràn đầy sinh khí, cùng với đó là sự diễn ra của nhiều lễ hội. Trong số các lễ hội mùa xuân, lễ hội đền Trần nam Định là một lễ hội nổi bật của dân tộc Việt Nam. Nam Định là vùng đất có nhiều danh nhân, là nơi khởi nguồn của nhà Trần - một triều đại vĩ đại của nước ta đã ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông. Với tinh thần ‘‘Uống nước nhớ nguồn’’, người dân Thành Nam đã xây dựng đền Trần - một di tích lịch sử văn hóa của người Việt.
Lễ hội đền Trần bao gồm lễ khai ấn và lễ hội lớn. Lễ hội đền Trần mùa xuân được nhiều người quan tâm cùng với Lễ hội khai ấn đền Trần, là một trong những lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ các vị vua Trần. Nguồn gốc của lễ hội đền Trần liên quan đến lịch sử của đền Trần. Đền Trần nằm ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, là nơi thờ các vị vua Trần và các quan lại giúp sức nhà Trần. Đền Trần được xây dựng năm 1965 trên nền Thái Miếu cũ, nhưng đền đã bị phá hủy bởi giặc Minh vào thế kỷ XV. Khu di tích đền Trần gồm các công trình: ngũ môn, hồ nước, nghi môn, giải vũ, đền Thiên Trường, đền Cổ Trạch và đền Trùng Hoa. Ngũ môn Ngũ môn gồm năm cửa (ba cửa to và hai cửa bé). Qua ngũ môn vào trong sẽ thấy hồ nước có diện tích khoảng 1.000m2. Hồ trong, cảnh quan đẹp, cây xanh phản chiếu xuống mặt hồ rất thơ mộng, duyên dáng. Đền nằm giữa khu di tích là đền Thiên Trường. Chuyện kể rằng, khi xây dựng, đền có ba gian, kết cấu bằng gỗ lim. Đến niên hiệu Long Đức 2 (1733), đền được mở rộng, với năm gian tiền đường, kết cấu bằng gỗ lim. Xung quanh đền là các công trình kiến trúc như: nghi môn, sân trong, hai nhà giải vũ, tiền đường, thiêu hương, tả vu, hữu vu, hậu cung. Đền Trần có 3 công trình kiến trúc chủ yếu gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Năm 1705, đền được gọi là Trần Miếu (miếu dòng họ Trần). Lễ khai ấn đền Trần lần đầu tiên được tổ chức năm 1239. Đây là nghi lễ triều đại nhà Trần tế tổ tiên. Những năm chống giặc Nguyên Mông, nhà Trần thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” nên rút hết quân về Thiên Trường, lễ khai ấn bị ngừng tới năm 1262 mới được khai lại. Tuy nhiên, qua nhiều biến cố lịch sử, ấn cũ của triều Trần bị mất. Đến năm 1822, vua Minh Mạng đến thăm Thiên Trường biết được, cho khắc lại ấn. Ấn cũ khắc “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc “Trần triều điển cố” ý chỉ nhắc lại tích cũ, dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”. Nhân dân duy trì nhiều năm, đến nay lễ khai ấn Đền Trần vẫn được giữ gìn, phát triển. Lễ khai ấn được quy định tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, lúc 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15. Khai ấn vào thời điểm này mang ý nghĩa như tín hiệu báo hiệu kết thúc những ngày tết truyền thống dân tộc, nhắc nhở nhân dân tiếp tục công cuộc lao động sản xuất. Ngoài ra, lễ hội đền Trần còn có cả lễ hội lớn được mở vào 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hằng năm với nghi thức lễ rước từ các đền xung quanh về dâng hương và tề tựu ở đền Thiên Trường và Cố Trạch.
Lễ hội đền thờ Trần có nghi lễ rất hấp dẫn. Trước hết nói về nghi lễ khai ấn, các vị vua truyền lại rằng vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, đúng cuối tháng giêng, trước sân đền thượng tổ chức nghi lễ Khai ấn với sự tham gia của bảy làng : Đọc, Lốc, Hậu Bồi, Bảo Lộc, Kênh, Bái, Tức Mặc. Tại đền Cố Trạch, thế hệ lão, lão bà mặc áo dài khăn xếp cùng dân làng vui đông đủ để tham dự lễ thánh rồi dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt trang trọng trên bàn thờ, bên trong có 2 dấu bằng đồng. Mặt trên mặt ẩn nhỏ có hai chữ “Trần Miếu”, còn mặt ấn lớn có chữ “Trần triều tự điển tích phúc vô cương”. Đến đúng giờ Tý (khoảng 23 giờ - 1 giờ đêm), tiếng pháo nổ lên báo buổi lễ bắt đầu. Một cụ già cao tuổi sẽ đứng lên thay mắt dân làng làm lễ, xin khải ấn lên vua. Đoàn người hoan hô ấn theo nhịp Trống chiêng cùng đèn nến sáng lung linh tiến sang đền Thiên Trường tiếp tục làm lễ. Trước là lễ dâng hương lên bàn thờ Trung Thiên, sau đó rước ấn và làm lễ xin khai ấn. Người bồi tế đặt 1 loại giấy dân gian của Việt Nam lên trước tế chính, đánh trống vang lên. Chủ tế trịnh trọng đóng ấn đỏ vào tờ giấy, gần đó ghi rõ ngày, tháng, năm, viết sao cho tính toán chính xác đến cuối cùng phải là chữ sinh. Giấy có dấu son được phát cho những người có mặt trong buổi lễ, chú về treo trong nhà để đón may và tránh theo xui xẻo, tà ma. Sang đến sáng ngày 15 tháng Giêng, dân làng sẽ tổ chức lễ rước nước. Trước khi bắt đầu, người tế chính vào lễ xin 1 nén hương ở bát hương tổ và 14 nén hương ở các bát hương Hoàng đế. Sau đó cắm vào bát nhang công đồng trên kiệu 8 chân. Cả đoàn khải phục trang nghiêm trọng, khinh công ra cổng đền, rồi dừng lại làm lễ tế trời đất sau đó mới tiếp tục ra bến sông Hồng. Tại bến Hữu Bị cách đền khoảng 3km, kiệu dừng lại. Người dân gióng trống khua thuyền đã trang trí cờ hoa vào giữa sông, người tế chính múc nước trong vào bình có sẵn. Khi nước đầy bình thì được rước kiệu về theo đường cũ. Nước trong bình sẽ được cho vào các bát và đặt lên bàn thờ làm lễ tế nước. Tế xong thì đưa cho con cháu họ Trần uống nhớ cội nguồn tổ tiên. Đến ngày 16 buổi sáng, lễ tế cá sẽ diễn ra tại đền Thiên Trường. Cá quả, cá chép tượng trưng cho hai vị tổ họ Trần là Trần Kinh và Trần Lý được đựng trong thúng sơn đỏ. Làm lễ tế xong thì rước thả ra sông Hồng. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như chọi gà, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn,… Không khí sôi động, vui vẻ, ngập tràn màu sắc và hơi thở truyền thống dân tộc. Cũng giống như những lễ hội khác của dân tộc, lễ hội đền Trần không chỉ mang giá trị vật chất mà còn có giá trị tinh thần vô cùng ý nghĩa. Nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại của dân tộc đồng thời cũng là nơi ghi dấu công lao, gửi gắm lòng tri ân thành kính của bao thế hệ người Việt với thế hệ đi trước.
Hiện nay, lễ hội đền Trần còn trở thành một nét đẹp văn hóa độc đáo hút khách trong và ngoài nước. Mỗi năm vào đầu xuân, đền Trần chào đón hàng nghìn du khách khắp nơi về dự đêm khai ấn, bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong những điều tốt lành. Lễ hội đền Trần từ đó đã trở thành một hoạt động văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc. Góp phần thể hiện truyền thống yêu nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao cả của nhân dân ta. Không chỉ là một lễ hội ngày xuân nổi bật, Lễ hội Đền Trần còn là niềm tự hào của người con Nam Định và cả dân tộc Việt Nam.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời