Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều" - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Truyện Kiều" còn rất thành công về nghê thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và gợi thì nghệ thuật tự sự cũng rất xuất sắc. Và trong đó chúng ta không thể quên nghệ thuật xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật thật tài tình, khéo léo qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và tiêu biểu là đoạn "Thúy Kiều báo ân báo oán".
Sau khi sa vào tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều bị Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích, nhử mồi cho khách làng chơi. Nhưng Tú Bà không ngờ rằng Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Thật may mắn, Kiều được cứu sống bởi một vị sư Giác Duyên. Khi trở về, biết cha và em trai vẫn đang ngày đêm thương nhớ mình, Kiều vô cùng xúc động. Nàng nhờ Giác Duyên đến chùa Vân Tự, tìm sư thầy hỏi thăm cha mẹ và gửi sư thầy chiếc vành, chiếc trâm làm tin. Sau đó, sư Giác Duyên đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Nhận được tin báo, cha mẹ Kiều vô cùng mừng rỡ, vội vàng đến gặp con. Cuộc đoàn tụ diễn ra thật cảm động. Không còn là cuộc gặp gỡ của mẹ cha và con cái mà nó giống như một cuộc xét xử tội ác của kẻ bất nhân, bất nghĩa. Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" kể về cuộc gặp gỡ này.
Trước hết, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, bao dung của Thúy Kiều khi gặp lại Thúc Sinh. Mặc dù Thúc Sinh là người đã mua Kiều về làm vợ lẽ nhưng sau khi chuộc thân cho Kiều, chàng đã cưới nàng về làm chính thất và đối xử rất tốt với nàng. Khi nghe tiếng đàn của Kiều, Thúc Sinh nhận ra ngay và vô cùng cảm kích vì nàng đã tha thứ cho mối quan hệ không thanh thiên bạch nhật ngày ấy. Chàng lập tức chạy lại chào hỏi:
"Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hôm nay"
Khi nghe Kiều nói muốn đền ơn cho mình, Thúc Sinh đã từ chối:
"Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là"
Ông chỉ mong Kiều ban cho một lời tạ ơn, không dám mong nhận lại điều gì nữa. Ông hiểu rõ, chỉ có Hoạn Thư mới có thể đòi lại công bằng cho mình. Trước tấm chân tình của Thúc Sinh, Kiều đã nói:
"Nghĩa nặng nghìn non
Sấm sét giật tung quan ải xa xa"
Để đáp lại ân tình ấy, Kiều đã mời cả nhà Thúc Sinh đến dự tiệc.
Nếu như với Thúc Sinh, Kiều dành sự bao dung, độ lượng thì với Hoạn Thư, nàng dành sự nghiêm khắc, lạnh lùng. Bởi nếu Hoạn Thư biết điều, chắc chắn nàng đã không phải chịu cảnh tù đày như bây giờ. Trái ngược với thái độ bình tĩnh khi gặp Thúc Sinh, lúc này Kiều vô cùng giận dữ, quyết tâm trừng trị Hoạn Thư vì những tội ác mà nàng ta gây ra cho nàng suốt một năm trời làm dâu họ Hoạn. Nghe tin Kiều mở tiệc mời mọi người đến dự, Hoạn Thư nửa tin nửa ngờ, sợ hãi rằng Kiều sẽ làm hại mình nên đã mật sai người đến dò la. Sau khi biết Kiều chưa thể làm gì mình ngay được, Hoạn Thư bắt đầu tính kế trốn thoát. Nhưng vừa về tới nhà, nàng ta đã bị bắt lại và giải đến nơi Kiều đang ngồi. Nhìn thấy Hoạn Thư, Kiều như nhìn thấy nguyên nhân của mọi đau khổ mà mình phải gánh chịu. Nàng căm phẫn, ghê tởm người đàn bà kia và quyết tâm trừng trị cho bõ ghét. Lúc này, Hoạn Thư đứng trước nguy cơ mất tất cả, mạng sống khó giữ, nàng đành phải hạ mình để van xin Kiều tha thứ. Đầu tiên, Hoạn Thư nhắc lại ơn cũ, khẳng định đó là lỗi lầm duy nhất của mình. Tiếp theo, Hoạn Thư lấy nỗi đau của Kiều ra để xót thương, thông cảm. Cuối cùng, Hoạn Thư đe dọa Kiều, nếu không tha cho nàng thì nàng sẽ chết và mọi oan ức sẽ thuộc về nàng. Những lời lẽ khôn ngoan, sắc sảo của Hoạn Thư khiến Kiều phải khâm phục. Dù rất căm hận nhưng cuối cùng Kiều vẫn tha thứ cho Hoạn Thư. Có thể thấy, Hoạn Thư là một người khôn ngoan, sắc sảo nhưng cũng độc hiền, đa mưu túc kế.
Qua đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", ta thấy được tấm lòng nhân hậu, bao dung của Thúy Kiều. Đồng thời, qua đoạn trích, Nguyễn Du cũng thể hiện niềm tin vào công lý, vào sự chiến thắng của cái thiện.
Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" là một đoạn trích hay, nhiều ý nghĩa. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,... kết hợp với bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc của văn học trung đại đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.