Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau giải phóng ông tiếp tục sáng tác và trở thành cây bút tiêu biểu của nền thi ca hiện đại Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Thơ Nguyễn Duy giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư khôn nguôi về cuộc đời, về con người và đất nước. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Ánh trăng được in trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm là tiếng lòng của tác giả khi nhớ về vầng trăng hồi ở chiến trường. Đặc biệt qua khổ thơ thứ 5 đã thể hiện rõ nét sự thức tỉnh lương tri và ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh vầng trăng.
Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Thời gian này dù cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn thiếu thốn nhưng vẫn tràn ngập niềm vui, tinh thần lạc quan. Tuy vậy trong lòng mỗi người vẫn luôn ẩn chứa nỗi nhớ da diết về quá khứ, về những kỉ niệm đã qua. Và đúng như lời thơ Chế Lan Viên: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn", mảnh đất Sài Gòn - nơi đóng quân của tác giả trong những năm tháng chiến đấu đã trở thành một phần không thể thiếu trong kí ức. Vì thế khi xa cách, tác giả mới có thể viết nên những dòng thơ xúc động, chân thành đến như vậy.
Nếu như ở bốn khổ thơ trước đó, tác giả tập trung miêu tả mối quan hệ gắn bó, thân thiết giữa người lính và vầng trăng thì sang khổ thơ thứ năm, Nguyễn Duy lại nhấn mạnh sự thức tỉnh lương tri của con người. Đó là lúc họ nhận ra lỗi lầm của bản thân, là lúc họ chợt thấy mình vô tình, phụ lại cả một quãng thời gian dài:
"Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình"
Hình ảnh "trăng cứ tròn vành vạnh" vừa diễn tả vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa của vũ trụ, vừa ngầm ý rằng quá khứ vẫn luôn vẹn nguyên, bất biến, không phai mờ. Từ "kể chi" thể hiện thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng đối với con người. Nó không hề oán hờn, trách móc mà vẫn luôn dịu dàng, hiền hậu. Điều ấy càng làm cho con người thêm thổn thức, đau đớn vì lỗi lầm của mình.
Trong khổ thơ, Nguyễn Duy đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để miêu tả ánh trăng. Vầng trăng không đơn thuần là một hiện tượng thiên nhiên nữa mà giống như một con người thật sự. Cách ngắt nhịp 2/2/3 cùng với giọng điệu trầm lắng, chậm rãi càng làm tăng thêm sức gợi hình, gợi cảm cho câu chữ. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm tới độc giả bức thông điệp sâu sắc: Hãy biết ơn, trân trọng những giá trị tốt đẹp trong quá khứ bởi nó chính là nguồn động lực giúp chúng ta vững bước trên đường đời.
Khổ thơ thứ năm khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi trong tâm trí người đọc. Nó khiến ta phải suy ngẫm, nhìn lại bản thân và sửa đổi kịp thời để xứng đáng với thế hệ cha anh đi trước.
Ngoài ra, khổ thơ này còn góp phần thể hiện chủ đề của bài thơ một cách trọn vẹn nhất. Đó là sự thức tỉnh lương tri của con người, là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh vầng trăng. Nó không chỉ là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của cuộc sống mà còn là minh chứng cho lòng vị tha, nhân hậu của con người.
Không chỉ riêng khổ thơ thứ năm mà xuyên suốt cả bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã rất khéo léo lồng ghép những triết lí sâu sắc về cuộc đời, về con người. Điều này được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa,... Cùng với đó là giọng điệu tâm tình, thủ thỉ kết hợp với thể thơ năm chữ ngắn gọn, hàm súc. Tất cả các yếu tố đó đã tạo nên một tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.
Có thể nói, khổ thơ thứ năm của bài thơ Ánh trăng là một trong những khổ thơ hay nhất. Nó đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Nguyễn Duy, đồng thời mang đậm dấu ấn cá nhân và có sức lay động mạnh mẽ tới tâm hồn người đọc.