câu 1. : Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận.
: Theo tác giả, "loài hoa này" là loài hoa mọc nơi cuối đất, cuối đời; kiên nhẫn, nhín nhường, hay biết phận biết thần. Nó không được chào đón, không được chờ đợi, không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang, không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá, không có bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm sóc nó cũng không dám mơ được nằm trên bàn tay tình. Nó không có căn cước tại đây, không bén mảng tới những hoa viên, nó không có chỗ trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất nó được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó? Không có chỗ trong vườn nhà, không bén mảng tới những hoa viên, nó không có căn cước tại đâý. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy aau. Thàng hoạc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn naò, thì nó chỉ được xem như dân lâụ, dân liêu. Nó thường bị trục xuât trước tiên khỏi những hoa viên, hoa mó bo họ igóc uyến. họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nưã, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang. Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không thâý. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đạt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường. Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò baĩ. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nôi hoang vu vón lại thành loài hoa aý. Có phái nó là đứa con tự tuc của nói hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khoả, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang daị. Nó là hoa lau.
: Tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê: nhấn mạnh vẻ đẹp riêng biệt của loài hoa lau.
câu 2. : Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận.
: Theo tác giả, "loài hoa này" là loài hoa mọc nơi cuối đất, cuối đời; loài hoa đợi đến cuối năm, cuối đời mới nở; loài hoa không được chào đón, không được chờ đợi; loài hoa không biết đến hội hè; loài hoa không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang; loài hoa không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá; loài hoa không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào; loài hoa không được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc; loài hoa không có bàn tay chăm; loài hoa không có bàn tay hái; loài hoa không có chỗ trong vườn nhà; loài hoa không bén mảng tới những hoa viên; loài hoa không có căn cước tại đây; loài hoa không có thẻ xanh để được quyền cư trú tại đây; loài hoa dạng nhảy dù; loài hoa sống chui; loài hoa là dân lậu; loài hoa là cư dân của những miền hoang, núi đồi gò bãi; loài hoa là kẻ chung thân chốn lãng quên; loài hoa là đứa con tự túc của nói hoang vu; loài hoa sinh ra để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không; loài hoa có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.
: Tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê trong đoạn trích:
- Nhấn mạnh vẻ đẹp đặc biệt của hoa lau: Hoa lau không chỉ là loài hoa mọc nơi cuối đất, cuối đời, mà còn là loài hoa đợi đến cuối năm, cuối đời mới nở, không được chào đón, không được chờ đợi, không biết đến hội hè, không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng, không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá, không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào, không được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc, không có bàn tay chăm, không có bàn tay hái, không có chỗ trong vườn nhà, không bén mảng tới những hoa viên, không có căn cước tại đây, không có thẻ xanh để được quyền cư trú tại đây, là loài hoa dạng nhảy dù, loài hoa sống chui, loài hoa là dân lậu, loài hoa là cư dân của những miền hoang, núi đồi gò bãi, loài hoa là kẻ chung thân chốn lãng quên, loài hoa là đứa con tự túc của nói hoang vu, loài hoa sinh ra để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, loài hoa có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.
- Tạo nên hiệu quả nghệ thuật độc đáo: Liệt kê giúp tác giả tạo nên một bức tranh đầy đủ, chi tiết về vẻ đẹp đặc biệt của hoa lau, đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp ấy.
: Vẻ đẹp của hoa lau được tác giả miêu tả qua nhiều khía cạnh:
- Vẻ đẹp về ngoại hình: Hoa lau mọc nơi cuối đất, cuối đời, đợi đến cuối năm, cuối đời mới nở, không rực rỡ, kiêu sa như các loài hoa khác.
- Vẻ đẹp về tính cách: Hoa lau không được chào đón, không được chờ đợi, không biết đến hội hè, không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng, không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá, không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào, không được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc, không có bàn tay chăm, không có bàn tay hái, không có chỗ trong vườn nhà, không bén mảng tới những hoa viên, không có căn cước tại đây, không có thẻ xanh để được quyền cư trú tại đây, là loài hoa dạng nhảy dù, loài hoa sống chui, loài hoa là dân lậu, loài hoa là cư dân của những miền hoang, núi đồi gò bãi, loài hoa là kẻ chung thân chốn lãng quên, loài hoa là đứa con tự túc của nói hoang vu, loài hoa sinh ra để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, loài hoa có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.
- Vẻ đẹp về tâm hồn: Hoa lau là loài hoa mang vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của sự lặng lẽ, âm thầm, vẻ đẹp của sự bền bỉ, kiên cường.
: Thái độ của tác giả đối với hoa lau:
- Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp đặc biệt của hoa lau.
- Đồng cảm với số phận lênh đênh, cô đơn, lẻ loi của hoa lau.
- Thể hiện niềm tin vào sức sống mãnh liệt, bền bỉ của hoa lau.
câu 3. :
Biện pháp tu từ so sánh: "Nó là loài hoa bên đường."
Tác dụng:
* Gợi hình: Hình ảnh "loài hoa bên đường" tạo nên một khung cảnh cụ thể, dễ hình dung.
* Gợi cảm: Biện pháp so sánh giúp nhấn mạnh vị trí, vai trò của hoa lau trong xã hội. Nó không được chú ý, không được trân trọng như những loài hoa khác.
* Nhấn mạnh: So sánh này nhằm khẳng định sự cô đơn, lẻ loi của hoa lau, đồng thời thể hiện sự xót thương, đồng cảm với số phận của chúng.
:
Hình ảnh ẩn dụ: "Hoa lau" tượng trưng cho những con người nhỏ bé, yếu đuối, bị lãng quên trong xã hội.
:
Bài học rút ra:
* Sự cô đơn, lẻ loi: Hoa lau là biểu tượng cho những con người nhỏ bé, yếu đuối, bị lãng quên trong xã hội. Họ luôn phải đối mặt với sự cô đơn, thiếu thốn tình cảm, sự quan tâm.
* Lòng trắc ẩn: Qua việc miêu tả vẻ đẹp của hoa lau, tác giả thể hiện sự đồng cảm, xót thương với số phận của những con người nhỏ bé, yếu đuối. Đồng thời, tác giả cũng lên án sự vô tâm, thờ ơ của xã hội đối với những mảnh đời bất hạnh.
* Giá trị của sự tồn tại: Dù bị lãng quên, hoa lau vẫn âm thầm tỏa sáng, mang đến vẻ đẹp cho đời. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, giá trị của mỗi cá nhân đều đáng trân trọng, dù họ có nhỏ bé, yếu đuối đến đâu.