ĐÚNG YÊU CẦU CỦA ĐỀ, ĐỦ CÁC Ý, KHÔNG CHÉP MẠNG, KHÔNG DÙNG AI/CHATGPT Câu 1 (8,0 điểm): Trong “Truyện Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu quan niệm: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Từ ý kiến tr...

thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Tài khoản ẩn danh
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

10/06/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Nam Cao được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945. Ông đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc như Chí Phèo, Đời thừa, Sống mòn… Trong đó, Chí Phèo là một kiệt tác, được xếp vào hàng kinh điển của nền văn học Việt Nam. Truyện ngắn này đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật điển hình là Chí Phèo - một nông dân cùng quẫn vốn lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa và cuối cùng chết vì lòng khát khao được sống lương thiện.

Chí Phèo ban đầu vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.

Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, tên cường hào lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này nhìn cũng khác mới. Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.

Khi mà Chí bị ám ảnh bởi những cơn say triền miên. Say rượu trộn lẫn với say tội ác. Cứ khi nào tỉnh rượu là hắn lại nhớ lại kí ức tăm tối của mình. Hắn muốn được uống, uống đến ghên say, điên cuồng chửi bới, phá phách, đâm chém, để trút khỏi trái tim khối u uất. Đó là nỗi đau đớn tột cùng của một con người sinh ra là người mà phải sống kiếp sống tối tăm của quỷ dữ. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bà Ba - người đã đưa hắn vào con đường tội lỗi cũng chỉ coi hắn là công cụ để thỏa mãn thú vui xác thịt mà thôi. Đau xót hơn nữa, Chí còn bị cả xã hội quay lưng lại.

Trong cơn cùng đường, tuyệt vọng, Chí Phèo đã đến nhà bá Kiến để đòi lại sự lương thiện cho mình. Chí đã nhận ra kẻ thù của mình chính là bá Kiến - kẻ đã cướp đi cái tính người và tư cách làm người của Chí. Chí đòi lương thiện trong cơn phẫn uất cao độ. Chí giết chết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt thân mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chuỗi ngày đau thương, tăm tối của Chí đã chấm dứt ở đây.

Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được cuộc đời khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Họ vốn là những người lương thiện, giàu lòng tự trọng nhưng đã bị xã hội dồn đẩy vào bước đường cùng. Điều đáng quý nhất ở Chí Phèo là dù có tha hóa, bị tước đoạt quyền làm người nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Chí vẫn luôn tiềm ẩn khát khao được sống lương thiện. Chính nhờ ánh sáng của thiên lương đã giúp Chí tìm lại được bản tính tốt đẹp của mình.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện niềm tin tưởng vào sức mạnh cảm hóa của tình người. Chí Phèo là "tiếng nói bức thiết" của Nam Cao về vấn đề "được làm người". Tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của con người ngay cả khi họ bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
minhchinhs

20/07/2025

message-box-blue.svg Trả lời tham khảo

Ho Do Do

Câu 1 (8,0 điểm):


Lẽ ghét thương trong cuộc sống hiện nay


Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ yêu nước và giàu lòng nhân ái, đã từng nói:

“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.

Câu nói giản dị mà sâu sắc ấy thể hiện một quan niệm nhân sinh giàu tình cảm và trách nhiệm: ghét và thương không đơn thuần là cảm xúc cá nhân mà còn là thái độ sống, là sự lựa chọn của lương tri trước cuộc đời. Trong xã hội hiện đại hôm nay, lẽ ghét – thương vẫn là một tiêu chí phản ánh nhân cách, giá trị và bản lĩnh của mỗi con người.


“Ghét” ở đây không mang nghĩa hận thù nhỏ nhen mà là thái độ rõ ràng với những điều sai trái: cái ác, cái giả dối, sự vô cảm, lối sống thực dụng, bất công, thói quen làm ngơ trước nỗi đau của người khác. Ngược lại, “thương” chính là lòng đồng cảm, vị tha và sẻ chia với con người, là hành động bảo vệ cái đúng, nâng đỡ người yếu thế, biết trân quý vẻ đẹp chân thành và tử tế. Những người biết ghét cái xấu, thương cái đẹp, ấy là người sống có trách nhiệm, có đạo đức, không quay lưng với cộng đồng.


Lẽ ghét thương ấy được thể hiện sinh động trong nhiều hiện tượng xã hội hôm nay. Đó là thái độ dứt khoát của giới trẻ với nạn bạo lực học đường, “body shaming”, phân biệt giới tính, đồng thời là sự lên tiếng bênh vực những số phận yếu thế, những nạn nhân của bất công và bạo lực. Ta thấy rõ điều đó qua những chiến dịch cộng đồng vì môi trường, vì quyền trẻ em, chống lạm dụng tình dục, cứu trợ thiên tai. Những hành động ấy không chỉ xuất phát từ tình thương mà còn hàm chứa sự căm ghét với cái ác, cái vô cảm.


Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đúng lẽ ghét thương. Có người ghét vì đố kỵ, thương vì vị lợi. Lại có người sống thờ ơ, vô cảm, đứng ngoài mọi lẽ đúng – sai. Điều ấy khiến xã hội thiếu đi sự kết nối, mất dần niềm tin và lòng nhân ái. Vì thế, mỗi người cần rèn luyện bản lĩnh để biết ghét – thương đúng chỗ, đúng lúc, đúng người.


Lẽ ghét thương, xét đến cùng, là biểu hiện của nhân cách sống có chiều sâu. Một xã hội sẽ chỉ thực sự tiến bộ nếu con người trong đó dám ghét cái ác và hết lòng thương yêu đồng loại. Đó chính là bài học lớn từ quan niệm giàu tính nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu, và cũng là ngọn đèn soi sáng cách chúng ta sống tử tế giữa cuộc đời hôm nay.


Câu 2 (12,0 điểm):


Từ truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, làm rõ nhận định: "Đến Nam Cao mới thật sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực"


Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam hình thành từ đầu thế kỉ XX, với những tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, phải đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực mới đạt tới sự "tự giác đầy đủ" về phương diện tư tưởng, nghệ thuật và chiều sâu nhân đạo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là minh chứng tiêu biểu cho tinh thần ấy.


Trước hết, Nam Cao thể hiện rõ sự tự giác về việc lựa chọn đề tài và đối tượng phản ánh. Trong “Chí Phèo”, ông không viết về tầng lớp trí thức thị dân hay địa chủ quen thuộc, mà tập trung khai thác bi kịch của tầng lớp bần cùng bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Chí Phèo là một nhân vật “dưới đáy”, đại diện cho lớp người nghèo khổ đến mức đánh mất cả hình hài lẫn nhân tính. Lựa chọn một đối tượng như vậy để khắc họa đã cho thấy bản lĩnh và chiều sâu hiện thực của nhà văn.


Thứ hai, Nam Cao không dừng lại ở việc phản ánh hiện thực xã hội mà còn đào sâu vào tâm lý con người – điều làm nên chiều sâu tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực. Nhân vật Chí Phèo không phải một tên lưu manh từ bản chất. Qua quá khứ bị bóp méo, quá trình tha hóa và thức tỉnh rồi rơi vào bi kịch, Nam Cao cho thấy sự xung đột giữa khát vọng làm người và hiện thực tàn khốc đã giết chết niềm tin sống. Bút pháp phân tích tâm lý đặc sắc ấy là biểu hiện rõ rệt của sự tự giác trong sáng tạo.


Hơn thế, Nam Cao còn nâng chủ nghĩa hiện thực lên tầm nhân đạo. Ông không chỉ vạch trần bộ mặt tàn nhẫn của xã hội thực dân nửa phong kiến, mà còn đau đáu đặt câu hỏi: “Ai đã làm hư hỏng Chí Phèo?” Câu hỏi ấy chứa đựng tinh thần phản biện xã hội sâu sắc. Bằng cách để nhân vật thức tỉnh nhưng không thể hòa nhập, rồi chết trong đau đớn, Nam Cao lên án một xã hội đã hủy hoại cả thể xác lẫn linh hồn con người. Đó là hiện thực không chỉ mô tả bề ngoài mà còn khám phá chiều sâu bản chất.


Cuối cùng, sự tự giác trong nghệ thuật của Nam Cao còn thể hiện qua việc cách tân kết cấu, ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật. Ông sử dụng thủ pháp dòng ý thức, kết hợp đối thoại với độc thoại nội tâm, xây dựng hình tượng điển hình giàu tính biểu tượng. Qua đó, truyện ngắn “Chí Phèo” không chỉ là bản cáo trạng đanh thép mà còn là bản giao hưởng bi tráng về số phận con người.


Như vậy, từ truyện ngắn “Chí Phèo”, có thể khẳng định Nam Cao đã tiếp nối và nâng tầm chủ nghĩa hiện thực theo hướng sâu sắc, tự giác, nhân văn và cách tân. Nhận định trong SGK là hoàn toàn xác đáng, bởi chính ở Nam Cao, văn học hiện thực Việt Nam đã đạt tới độ chín cả về tư tưởng và nghệ thuật. Đó là đóng góp quan trọng của ông vào tiến trình phát triển của văn học dân tộc.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved