Tràng Giang là một tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, thể hiện rõ nhất phong cách cổ điển, vừa trang nhã, vừa u uất, trầm lắng. Bài thơ được in trong tập Lửa thiêng năm 1940. Nhan đề "Tràng giang" mang ý nghĩa là sông dài, gợi liên tưởng về một dòng sông dài, rộng lớn. Dòng sông ấy không có một cái tên riêng nào mà chỉ gọi là sông dài. Hai chữ Tràng giang mang sắc thái cổ điển trang nhã, giọng điệu trầm lắng nghiêm tráng, tạo nên một không khí cổ kính xưa cũ. Đồng thời nó cũng gợi lên sự mênh mông, bát ngát, không giới hạn của dòng sông. Hình ảnh dòng sông ấy chính là hóa thân của ngòi bút nhà thơ - một dòng chảy bất tận, vô hồi, vô hạn của nỗi buồn miên man, da diết.
Mở đầu bài thơ là khổ thơ mang vẻ đẹp cổ điển như bức tranh thủy mặc của phương Đông với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi như con thuyền xuôi mái chèo, nước song song, bờ xanh tiếp bãi vàng...
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Hình ảnh dòng sông trải dài, lan ra bao trùm cả bầu trời, đặc biệt hơn nữa là dòng sông ấy đang vận động không ngừng. Những con sóng lăn tăn nối đuôi nhau đến tận chân trời. Thuyền thì xuôi mái, nước thì song song, củi thì lạc lõng một mình. Các từ láy "bâng khuâng", "điệp điệp", "song song" làm tăng thêm chất cổ điển và chất suy tư của bài thơ. Khổ thơ đã vẽ lên một bức tranh dòng sông thật đẹp nhưng cũng thật buồn.
Đến khổ thơ thứ hai, khung cảnh thiên nhiên vẫn là những sự vật ấy nhưng đã được nhân hóa, trở nên buồn bã hơn.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Những cồn cát thưa thớt, gió thổi nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để lay động từng ngọn cỏ. Không gian vắng lặng đến mức khiến cho âm thanh chợ chiều từ một làng xa cũng trở nên mơ hồ, không rõ ràng. Từ đó, cảm giác buồn bã, cô đơn càng thấm thía hơn. Đặc biệt là cụm từ "đìu hiu" được lặp lại hai lần ở cuối câu thơ thứ ba và đầu câu thơ thứ tư càng nhấn mạnh thêm sự quạnh quẽ, hoang vắng của cảnh vật. Càng lên cao, bầu trời càng rộng và cảm giác cô đơn, lẻ loi của con người càng lớn. Bởi vậy, khi mặt trời chìm dần vào lòng đất, không gian bỗng trở nên mênh mông hơn, rộng lớn hơn và sâu thẳm hơn.
Khổ thơ thứ ba là sự xuất hiện của hình ảnh con người với mong muốn tìm thấy sự đồng điệu nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo gợi lên cho ta nhiều liên tưởng. Bèo dạt là bèo không có nơi sinh sôi, nảy nở, là bèo lênh đênh khắp mọi nơi. Hay bèo là ẩn dụ cho thi nhân, cho số phận bơ vơ không định hướng. Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh ấy vẫn khiến cho người đọc xót xa, ngậm ngùi trước cuộc đời, trước số phận.
Ở hai câu thơ sau, không gian mở rộng cả về bốn bề, khiến cho con người đã bé nhỏ nay càng trở nên cô độc và đơn côi hơn. Khung cảnh thiên nhiên tuy rộng lớn nhưng lại vắng lặng đến rợn ngợp.
Khổ thơ kết thúc bài thơ là sự xuất hiện của hình ảnh con người với mong muốn tìm thấy sự đồng điệu nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Từ "mây cao" cùng động từ "đùn" khiến mây như có sức sống, dồn dập, trùng điệp thành từng lớp, từng lớp uyển chuyển mà vững chãi, che phủ cả bầu trời. Giữa khung cảnh hùng vĩ ấy là hình ảnh chú chim nhỏ chao nghiêng cánh nhỏ. Sự đối lập giữa cánh chim và bầu trời đã khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên hài hòa, cân xứng và rất có hồn. Trước cánh chim chao nghiêng trong buổi chiều tà, lòng thi nhân chợt nhớ nhà. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt được thể hiện qua từ "dờn dợn" - nỗi nhớ như tràn ngập, bao trùm lên cả con sóng, con nước.
Bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn với nỗi buồn miên man, sâu thẳm của thi nhân. Qua đó, chúng ta cũng thấy được tình yêu quê hương tha thiết và tấm lòng gắn bó với đất nước của nhà thơ.