Lê Hữu Trác là một danh y lỗi lạc đồng thời cũng là một nhà văn có đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà. Ông đã để lại cho đời sau một tác phẩm quý đó là “Thượng kinh kí sự”. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh thăm khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một đoạn trích tiêu biểu trong tập kí sự này, nổi bật với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
“Thượng kinh kí sự” được viết bằng chữ Hán, gồm 370 câu thơ kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và việc chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, kể về việc Lê Hữu Trác được mời vào kinh thăm khám bệnh cho thế tử. Qua đó, tác giả đã vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư thầm kín của mình.
Trước hết, đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng ngòi bút chân thực, khách quan, tác giả đã vạch trần bộ mặt thật của nhà chúa thời Lê Trịnh – một xã hội thối nát với cuộc sống xa hoa, ăn chơi sa đọa, trái hẳn với cuộc sống cơ cực, lầm than của người dân lao động. Khung cảnh phủ chúa hiện lên với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, mùi hương thoang thoảng. Bên trong là những kiến trúc nguy nga tráng lệ, “quanh lầu ngự đều có những hàng cây chùm bao quấn lấy, hoa triêu nhan đỏ hồng nở đầy”. Mọi thứ đều rất đẹp đẽ, sang trọng, từ dãy hành lang quanh co, đến những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. Đặc biệt nhất là cung cạnh phòng ở của thế tử đều được sơn son thiếp vàng, từ những cột trần, cho đến những mâm bát đĩa đều là “đồ quang dầu đĩa sứ nạm vàng”. Tất cả đều toát lên vẻ giàu sang phú quý mà xưa nay nhân dân lao động chưa từng được biết. Cuộc sống trong phủ chúa còn được miêu tả qua những bữa ăn thức uống như chè thơm, mè xửng, bầu đôi, mật ong,… Những món ăn ngon vật lạ ở chốn phồn hoa đều tụ hội về đây.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của đoạn trích còn thể hiện ở việc vạch trần quyền uy tột đỉnh cùng lối sống buông thả xa hoa của nhà chúa. Phủ chúa là nơi quyền uy tột đỉnh, không ai dám làm trái. Khi tác giả vào phủ, có mấy người giữ cửa hỏi gọi tên, rồi cho vào. Tiếp đó là người truyền lệnh hỏi: “Ai là thầy thuốc”, rồi “ai đưa thư”,… Sau đó lại có mấy người “nhãn hàng” hớt hải chạy như ngựa lồng, “người cầm dùi, người cầm tay”, “cấm quân” gươm giáo chỉnh tề, lúc vào, lúc ra cũng “nhốn nháo như chợ”. Quyền uy của nhà chúa còn được thể hiện qua việc tác giả bị lôi vào phủ dù không muốn, “bị cuốn đi như chiếc lá ngả nghiêng trong cơn gió lốc”. Đó còn là việc tác giả phải quỳ lạy, chào hỏi cung kính trước một đứa bé mới bốn năm tuổi. Nhà chúa tuy ở xa lánh bụi trần, không quản việc triều đình nhưng lại nắm giữ mọi quyền hành trong tay, đứng trên cả vua. Chính vì vậy, họ mới có cuộc sống xa hoa, ăn chơi sa đọa như vậy.
Bên cạnh giá trị hiện thực, đoạn trích còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị ấy được thể hiện ở tấm lòng nhân ái, thương cảm của tác giả trước cảnh khổ của người dân lao động. Trong ngày đầu tiên vào phủ chúa, tác giả đã có dịp quan sát khung cảnh nơi đây. Trước khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, tác giả đã bộc lộ những cảm xúc xót xa trước cuộc sống khổ cực của người dân lao động. Từ những gì được tận mắt chứng kiến trên đường đi, tác giả đã hình dung ra một bức tranh toàn cảnh về sự bất công xã hội. Đó là sự chênh lệch giàu nghèo đến mức độ nghiệt ngã, bất nhân. Người dân lao động thì đói nghèo, thiếu thốn, lam lũ nhọc nhằn kiếm miếng cơm manh áo. Còn vua chúa, quan lại thì sống trong nhung lụa, xa hoa, ăn chơi vô độ. Điều đó càng khiến tác giả thêm căm ghét chế độ phong kiến thối nát, chỉ biết lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, xương máu nhân dân. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm, xót xa trước cuộc sống khổ cực của người dân.
Ngoài ra, giá trị nhân đạo của đoạn trích còn thể hiện ở thái độ phê phán, châm biếm sâu cay đối với tầng lớp thống trị thời bấy giờ. Trong đoạn trích, tác giả đã khéo léo phơi bày sự lộng hành của bọn quan lại hầu cận chúa, chúng ngang nhiên ức hiếp, cướp đoạt của nhân dân mà không hề chùn tay. Chúng “làm như đùa chơi”, “nói năng thô bỉ”, “ăn nói ngạo mạn”, “đi đứng tùy tiện”, “khinh nhờn”,… Tất cả đã tạo nên một bức tranh toàn cảnh về sự thối nát, mục ruỗng của chế độ phong kiến đương thời.
Như vậy, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã mang đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Qua đó, ta thấy được tài năng và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa là một nhà văn xuất sắc.