5 giờ trước
5 giờ trước
Nguyễn Tuân là người đam mê chủ nghĩa xê dịch. Trong hành trình tìm đến mảnh đất vùng cao Tây Bắc, ông đã cho ra đời tập tùy bút “sông Đà”. Nổi bật trong đó là tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Đọc tác phẩm, tôi ấn tượng nhất hình tượng con sông Đà với vẻ đẹp hung bạo.
Trước hết, hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu” có nghĩa là mọi dòng sông trên đất nước Việt Nam đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà là chảy theo hướng bắc. Qua đó, Nguyễn Tuân muốn gợi mở cho người đọc hình ảnh mà chúng ta chưa biết về sông Đà. Dòng sông tự lựa chọn cho mình một hướng đi riêng, khác biệt hoàn toàn so với những con sông khác.
Tiếp đến, vẻ đẹp hung bạo của sông Đà được thể hiện qua vách đá sông Đà. Nhà văn đã khắc họa qua các hình ảnh “đá bờ sông dựng vách thành”. Và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp - “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời…” và “con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách”.
Vẻ đẹp hung bạo còn được thể hiện qua thác nước sông Đà. Câu văn miêu tả sự hùng vĩ của thác nước “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”. Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”. Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông. Đặc biệt nhất là thạch trận sông Đà. Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Với ba trùng vi thạch trận đều vô cùng nguy hiểm. Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”.
Tóm lại, vẻ đẹp hung bạo của sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng chân thực, sinh động.
5 giờ trước
Slayer Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Sau Cách mạng, ông không còn chỉ “ngông” tìm vẻ đẹp của quá khứ mà hướng ngòi bút vào hiện thực đất nước. Người lái đò sông Đà trích trong tập Sông Đà (1960) chính là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày ở miền núi Tây Bắc. Qua ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà với hai vẻ đẹp đối lập mà thống nhất: hùng vĩ dữ dội và thơ mộng trữ tình.
Trước hết, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.
Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà như một kẻ “thù số một” của con người. Dòng sông ấy có lúc “đá bờ sông dựng vách thành”, “có quãng như cái yết hầu”, khiến người lái đò như bị nhốt giữa hai bức tường khổng lồ. Âm thanh dữ dội của nó cũng được nhà văn tái hiện bằng nhiều tầng nhiều lớp: tiếng thác nước gầm thét “rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng lồng lộn”, tiếng nước va đập “như bầy đàn hổ báo hò la”. Không chỉ âm thanh, mà hình dáng, sóng nước, đá ngầm… tất cả đều tạo thành một chiến trường khốc liệt, thách thức bản lĩnh người lái đò. Qua lối so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã dựng lên một bức tranh sông Đà hùng vĩ, dữ dội và hiểm trở.
Nhưng sông Đà còn mang một vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân đã phát hiện sông Đà từ góc nhìn lãng mạn, như một cố nhân xa gặp lại. Dòng sông hiện ra “tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình”, có khi lặng lờ trôi đi giữa những bờ bãi hoang sơ, cổ kính. Màu nước biến hóa theo mùa: xuân thì “xanh ngọc bích”, thu thì “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Trong đôi mắt thi sĩ, sông Đà chẳng khác nào một “cố nhân”, một người tình duyên dáng và đầy quyến rũ. Cách cảm nhận giàu chất thơ, chất hội họa ấy đã biến con sông thành một sinh thể có tâm hồn.
Qua bút pháp tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo.
Nó vừa dữ dội, hùng vĩ, vừa thơ mộng, trữ tình – vừa là kẻ thù vừa là người bạn tri kỷ. Hình tượng sông Đà không chỉ cho thấy thiên nhiên Tây Bắc phong phú, kỳ vĩ mà còn làm nền để tôn vinh người lao động – những người lái đò dũng cảm, tài hoa.
Kết bài
Nguyễn Tuân đã dùng tất cả vốn ngôn từ và tài năng nghệ sĩ để khắc họa vẻ đẹp đa dạng của sông Đà. Đó là dòng sông hùng vĩ và thơ mộng, vừa mang dáng dấp của một thiên nhiên lớn lao, vừa gắn bó thân thiết với con người Tây Bắc. Qua Người lái đò sông Đà, ta càng thêm yêu đất nước, tự hào về thiên nhiên và con người lao động Việt Nam.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời