Hồ Chủ tịch không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của đất nước. Trong số những tác phẩm mà Người để lại cho nền văn học nước nhà thì bài thơ "Cảnh khuya" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất, được viết vào năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đang hồi gay go, quyết liệt: "Giữa rừng đêm vắng lặng, ánh trăng rọi sáng xuống mặt đất, bỗng vang lên tiếng suối chảy róc rách". Đó cũng chính là nguồn cảm hứng để Bác viết nên bài thơ "Cảnh khuya":
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà."
Hai câu thơ đầu của bài thơ đã gợi lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, đó là vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc với âm thanh vang vọng rõ ràng mà trầm bổng, ngân xa:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa"
Trong không gian tĩnh mịch của màn đêm, tiếng suối trở thành âm thanh nổi bật, làm cho khung cảnh trở nên sống động hơn. Tiếng suối được so sánh "trong như tiếng hát" vào buổi trưa yên tĩnh, khi mọi người nghỉ ngơi trong giấc ngủ, tiếng suối chảy nghe rõ hơn bao giờ hết và Bác đã ví von tiếng suối như có hồn như có tình, tựa như tiếng hát ngọt ngào, ấm áp, thân thương khiến tâm hồn người lính đang canh giữ nơi rừng hoang sương muối cũng cảm thấy như được an ủi, vỗ về.
Dưới tài năng và tâm hồn lãng mạn của Bác, dòng suối rừng Việt Bắc đã trở thành một dòng suối thơ tràn đầy sức sống, như một sinh thể, có hồn phách và âm thanh trong vắt cao vút, ngân nga thấm đẫm vào tâm hồn người thi sĩ.
Sau âm thanh của tiếng suối, đó là vẻ đẹp của ánh trăng nơi núi rừng Việt Bắc:
"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Hình ảnh trăng, hoa, cây cỏ,... xuất hiện nhiều trong thơ ca của Bác. Ở đây, ánh trăng sáng đã chiếu lên cây cổ thụ, rồi bóng cây cổ thụ lại trùm lên hoa. Bác đã sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh thật đặc sắc: lấy âm thanh của tiếng suối để nói về cái "lặng" của cảnh rừng khuya.
Điệp từ "lồng" được nhắc đi nhắc lại hai lần đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên lung linh huyền ảo. Ánh trăng trải khắp mặt đất, len lỏi qua từng tán lá để rồi lọt xuống mặt đất xuyên qua những bông hoa rừng, tạo nên một cảnh tượng vô cùng huyền ảo. Bức tranh ấy vừa có tầng cao, vừa có tầng thấp. Màu sắc của bức tranh cũng vô cùng sinh động: có màu đen của bóng cây, có màu trắng của ánh trăng, có màu vàng nhạt của hoa rừng. Tất cả hòa quyện lại với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Nếu như ở hai câu thơ đầu tiên, Bác chỉ miêu tả về thiên nhiên thì ở hai câu thơ sau, Bác đã khéo léo đưa vào đó tâm trạng của mình:
"Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà"
Bác đã ví cảnh khuya như một bức tranh, một bức tranh đẹp đẽ, hữu tình nên thi sĩ chưa ngủ được vì cảnh đẹp. Nhưng cũng có thể hiểu rằng, Bác chưa ngủ vì trăn trở trước vận mệnh của đất nước. Hai câu thơ này đã cho chúng ta thấy được con người của Bác. Một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm luôn rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời cũng là một chiến sĩ cách mạng suốt đời trăn trở, nghĩ suy về vận mệnh của đất nước.
Có thể nói, bài thơ "Cảnh khuya" là một bài thơ hay, độc đáo. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm của mình, Bác đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và có hồn. Qua đó, chúng ta cũng thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết của Bác.
Bài thơ "Cảnh khuya" đã giúp em hiểu thêm về tâm hồn yêu thiên nhiên, lòng yêu nước sâu nặng và tinh thần trách nhiệm lớn lao của Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người mãi là tấm gương sáng cho bao thế hệ noi theo.