Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều”- kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc “Thúy Kiều”còn rất thành công về nghệ thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và gợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Có thể nói đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ tiêu biểu nhất.
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đoạn thơ dài 22 câu, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi niềm và tâm trạng của Thúy Kiều.
Với cảnh ngộ của Thúy Kiều lúc này, có lẽ hai chữ “buồn trông” đã trở thành tâm trạng, thành thói quen nhìn về mọi nơi để mong tìm được một chút gì quen thuộc, một chút tình người cho khỏi vơi quạnh hiu, cho đỡ buồn. Nhưng…từ khung cảnh đến cảnh vật đều gợi cái cô đơn, tội nghiệp:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Từ lầu cao nhìn ra, phía trước là núi mơ màng, xa xa là tấm trăng gần. Xung quanh bốn bề là cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Một khung cảnh thiên nhiên mênh mông, hoang vắng. Xa thẳm, vắng lặng, không một tiếng người, không có cả một bóng người để chia sẻ những nỗi buồn chất chứa trong lòng nàng. Một mình một ngọn đèn khuya leo lét trong đêm. Nhìn xuống mặt đất, những cánh hoa rơi lác đác trên mặt đất tưởng như chiếc lá mùa thu đang rụng. Gió cuốn mặt duềnh… Âm thanh của sóng biển ào ạt như tiếng thét gào của sự khủng khiếp, của ngàn sóng dữ, của gió bấc rét cắt da, cắt thịt. Những cơn gió cuốn mặt duềnh ùa vào khiến cho khung cảnh vốn đã hoang vu càng trở nên ghê rợn hơn.
Một loạt từ láy: “xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm” vừa gợi tả màu sắc, âm thanh, vừa gợi cảm xúc trong tâm trạng của Thúy Kiều. Thiên nhiên luôn thay đổi theo bước đi của thời gian: từ bình minh đến trưa, rồi chiều tà và màn đêm buông xuống. Nó cũng giống như tâm trạng của Thúy Kiều từ hi vọng, chờ đợi đến thất vọng, buồn tủi, đau đớn, tuyệt vọng.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Mỗi cặp câu để diễn tả một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, ngó ra xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi tình trạng hiện tại. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng ngoài cửa bể như đem đến cho Thúy Kiều một chút ấm áp bởi nó gợi đến khung cảnh gia đình đoàn tụ, sum họp. Nhưng con thuyền ấy lại ở ngoài tầm tay kía, Kìu chỉ có thể nhìn thấy nó một cách mờ mắt, thấp thoáng.
Hình ảnh ngọn cỏ được đưa vào trong thơ ca nhưng không còn là ngọn cỏ vô tri vô giác nữa mà nó là nội cỏ, là cái hồn của cảnh vật được Thúy Kiều thổi vào. Nội cỏ rầu rầu là nội cỏ mang tâm trạng buồn rầu chứ không phải nội cỏ tươi xanh mỡ màng. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh là bầu trời biển khơi hay là biển nước mắt của Thúy Kiều?
Âm thanh ầm ầm của tiếng sóng kêu như báo hiệu bão tố của cuộc đời đang ập đến, vùi dập cuộc đời Kiều, đẩy Kiều vào vòng xoáy của số phận.
Bằng ngòi bút đặc tả, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên về cảnh và tình của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích với nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ và cuối cùng là nỗi buồn về thân phận bất hạnh của mình.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh đa dạng, phong phú những vẫn tạo nên một tổng thể thống nhất về cảnh ngộ và tâm trạng của Thúy Kiều. Đó là bức tranh được vẽ lên bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Qua đoạn trích, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình. Đồng thời, ta cũng thấy được một trái tim yêu hết mình, một người con hiếu thảo, luôn biết trước biết sau như Thúy Kiều.