Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

thumb up 1
thumb down
Trả lời câu hỏi của 💀✧𝐁𝐮𝐫𝐧 𝐭𝐡𝐞 𝐂𝐫𝐨𝐰𝐧✧☠️
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

07/09/2025

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu.

Bài thơ "Đồng Chí" của Chính Hữu là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính cách mạng, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ đã thể hiện rõ nét nhất vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó giữa những người lính.

Trong hai khổ thơ đầu, tác giả đã tập trung miêu tả xuất thân của những người lính. Họ đều là những người nông dân nghèo khổ, chất phác, sống ở những vùng quê nghèo khó:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Những người lính ấy, dù xuất thân từ những miền quê khác nhau nhưng họ đều có chung một hoàn cảnh sống nghèo khó, lam lũ. Họ là những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Khi đất nước bị xâm lược, họ đã sẵn sàng rời bỏ quê hương, ruộng vườn để lên đường chiến đấu.

Tuy nhiên, dù xuất thân từ những miền quê nghèo khó, nhưng những người lính vẫn có chung một lí tưởng cao đẹp đó là chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Họ đã gặp gỡ, quen nhau trong những ngày đầu nhập ngũ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết nhau trước đó. Nhưng khi đất nước lâm nguy, họ đã cùng chung một nhiệm vụ, một lí tưởng, trở thành những người đồng chí, đồng đội thân thiết.

Tình đồng chí, đồng đội của những người lính được thể hiện rõ nét nhất qua những hành động, cử chỉ giản dị, mộc mạc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hình ảnh “súng bên súng”, “đầu sát bên đầu” gợi lên sự gắn bó, kề vai sát cánh của những người lính trong chiến đấu. Họ cùng chung một nhiệm vụ, cùng chung một mục đích, cùng chung một lí tưởng. Trong đêm rét, họ chia sẻ với nhau tấm chăn mỏng manh, trở thành những người tri kỉ.

Tình đồng chí, đồng đội của những người lính còn được thể hiện qua những lúc gian khổ, hiểm nguy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Trong những lúc gian khổ, hiểm nguy, những người lính luôn sát cánh bên nhau, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn. Họ cùng nhau chịu đựng cái rét cắt da cắt thịt, cùng nhau trải qua những cơn sốt rét rừng. Tất cả những khó khăn, gian khổ ấy càng khiến cho tình đồng chí, đồng đội của họ thêm bền chặt.

Như vậy, qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính cách mạng, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Họ là những người nông dân nghèo khổ, chất phác, nhưng khi đất nước lâm nguy, họ đã sẵn sàng rời bỏ quê hương, ruộng vườn để lên đường chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội của họ là một trong những sức mạnh to lớn giúp họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Tập thơ "Đầu súng trăng treo" với bài thơ "Đồng chí" là một trong những thi phẩm xuất sắc, điển hình, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Chính Hữu. Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ là bức chân dung đẹp về người lính cụ Hồ.

Tác phẩm được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947. Với cái nhìn chân thực của người lính – người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng ra mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình đồng chí của người lính cách mạng. Trước hết, họ là những người lính xuất thân từ những chàng trai nông dân áo vải lam lũ, nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước và chứa chan tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương dân tộc:

 

"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."

Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quí giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."

Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.

Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."

Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuộc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ

"Tây Tiến" của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."

Hay trong bài "Dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:

"Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe."

Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết... Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình. Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: "áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày". Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:

"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."

Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và "Trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ Quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.

Tóm lại, bài thơ "Đồng chí" là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Brandon Tran

07/09/2025

Hình ảnh người lính trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu là một bức chân dung vừa hiện thực, vừa lãng mạn, thể hiện vẻ đẹp giản dị, cao quý của những người lính Cụ Hồ trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân mặc áo lính, xuất thân từ những miền quê nghèo khó, "nước mặn đồng chua" hay "đất cày lên sỏi đá". Tình đồng chí của họ nảy nở từ sự đồng cảm về hoàn cảnh, về mục đích chiến đấu và được tôi luyện trong gian khổ, thiếu thốn. Họ cùng nhau chia sẻ sương gió, đói rét, bệnh tật và cả những hiểm nguy "miệng cười buốt giá". Tình cảm ấy trở nên bền chặt, thiêng liêng và sâu sắc, vượt lên trên mọi sự thiếu thốn vật chất để trở thành sức mạnh tinh thần. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là một biểu tượng đầy chất thơ, lãng mạn hóa hiện thực chiến tranh, thể hiện sự lạc quan và tâm hồn bay bổng của người lính. Nó cũng cho thấy một vẻ đẹp khác của họ: không chỉ là những chiến binh quả cảm mà còn là những con người với tâm hồn nhạy cảm, yêu cái đẹp và luôn hướng về tương lai hòa bình. "Đồng chí" của Chính Hữu đã khắc họa thành công một thế hệ người lính bình dị, dũng cảm, tràn đầy tình yêu thương và lý tưởng, làm nên sức mạnh vĩ đại của quân đội ta.


Nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là một hình tượng bi kịch, đại diện cho số phận khốn khổ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời cũng là biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của họ. Lão là một người cha hết mực thương con, sẵn sàng làm mọi việc để dành dụm tiền cưới vợ cho con trai, và quyết giữ lại mảnh vườn, dù đó là tài sản cuối cùng, để làm của hồi môn cho con. Nỗi đau lớn nhất của lão là phải bán đi con chó Vàng - người bạn thân thiết, người con tinh thần duy nhất của lão sau khi con trai đi phu. Hành động này không chỉ thể hiện tình yêu thương, sự thủy chung mà còn cho thấy sự giằng xé nội tâm sâu sắc, bởi việc bán chó khiến lão cảm thấy mình "như một thằng lừa dối", "đã trót ăn của một con chó". Cuối cùng, để bảo toàn mảnh vườn cho con, lão đã chọn cái chết đau đớn và dữ dội bằng bả chó, một cái chết vừa thảm khốc lại vừa cao cả. Qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã xây dựng một hình tượng bi kịch đầy ám ảnh, một người nông dân nghèo khổ bị dồn vào đường cùng nhưng vẫn giữ trọn vẹn sự lương thiện, lòng tự trọng và tình yêu thương con cái.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved