Xuân Diệu - "ông hoàng thơ tình" đã đem đến cho kho tàng văn học Việt Nam biết bao vần thơ say đắm, ngọt ngào và mãnh liệt về tình yêu đôi lứa. Bên cạnh những áng thơ tình làm nên tên tuổi của ông, ta còn bắt gặp những vần thơ thấm đượm cái hồn của mùa thu, nỗi u uất của kiếp người trước Cách mạng tháng Tám. Hai bài thơ "Tiếng thu" và "Thu vịnh" chính là những minh chứng tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác đó của Xuân Diệu.
Cả hai bài thơ đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật - một thể thơ rất thích hợp để các tác giả có thể bộc lộ được hết những tâm tư tình cảm của mình. Tuy cùng viết về đề tài mùa thu, cùng sử dụng thể thơ và biện pháp tu từ giống nhau nhưng mỗi bài thơ lại mang đến cho chúng ta những cảm nhận mới mẻ riêng về mùa thu.
Trong bài thơ "Tiếng thu", nhân vật trữ tình dường như đang hòa mình vào thiên nhiên để lắng nghe những âm thanh của trời đất vào độ chuyển mùa:
"Đã ai lên núi vào lúc rừng thu
Lắng nghe tiếng thu ở trong lòng cây?"
Từ "lúc" ở đây chỉ thời điểm hiện tại - thời điểm mà mọi vật đang giao thoa giữa mùa hạ và mùa thu. Nhân vật trữ tình không trực tiếp cảm nhận những biến chuyển ấy mà thay vào đó lựa chọn cách lắng nghe "tiếng thu" trong "lòng cây". Lòng cây chính là tâm hồn của cây, là nhựa cây, là nơi kết tinh những gì tinh túy nhất của cây. Từ "lắng nghe" kết hợp với cụm từ "trong lòng cây" đã cho thấy sự tinh tế trong cách cảm nhận của nhân vật trữ tình. Đó không phải là những cảm nhận bằng mắt, bằng tay mà là cảm nhận bằng thính giác. Đây quả là một khả năng cảm nhận hơn người. Tiếp tục lựa chọn những hình ảnh để miêu tả mùa thu, tác giả viết:
"Có một dòng lá thu rơi liệng
Đến rễ bám chặt vẫn chưa thôi."
Hình ảnh nhân hóa cùng cách gieo vần "eo" đã diễn tả trọn vẹn sự chuyển động nhẹ nhàng xoay tròn rồi rơi xuống mặt đất của chiếc lá. Động từ "liệng" khiến người đọc liên tưởng đến sự buông bỏ, rời xa. Chiếc lá dường như đang lưu luyến chốn cũ nên chao đảo rồi "liệng" xuống đất. Thế nhưng dù có "liệng" thì chiếc lá ấy vẫn sẽ rơi xuống mặt đất, giống như sự chảy trôi của thời gian, của tự nhiên - mọi thứ đều buông bỏ nhưng lại rất đỗi nhẹ nhàng, êm dịu.
"Rễ cây sâu mãi mãi đã chắc rồi."
Dù cho chiếc lá có lìa xa thì những chiếc rễ cây vẫn bám chặt lấy lòng đất. Mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về quy luật của cuộc đời, tác giả muốn gửi gắm thông điệp rằng con người đến rồi đi, nhưng những phẩm chất tốt đẹp của họ để lại sẽ như những chiếc rễ cây ăn sâu vào tâm hồn, trở thành bất tử với thời gian.
Nếu như trong "Tiếng thu", tác giả Xuân Diệu lắng nghe bước đi của mùa thu bằng thính giác thì trong "Thu vịnh", nhà thơ Nguyễn Khuyến lại cảm nhận mùa thu bằng thị giác:
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."
Không gian mùa thu được mở ra với bầu trời cao rộng, trong trẻo. Tầng mây "xanh ngắt" gợi ra sự thăm thẳm, gợi cảm giác mênh mông, thoáng đãng. Trên nền trời ấy là hình ảnh cần trúc đung đưa khe khẽ trong gió heo may se lạnh. Động từ "hát" kết hợp với tính từ "hiu hiu" đã gợi ra sự lay động nhẹ nhàng của cành trúc. Tất cả dường như đều chìm vào trạng thái thư giãn và bình yên trong tiết trời mùa thu mát mẻ.
"Nước biếc trông như tảng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào"
Màu nước "biếc" của hồ sen trong veo, trong vắt như làn khói phủ. Ánh trăng vàng xuyên qua song cửa mỏng manh, nhẹ nhàng bước vào không gian ngôi nhà. Bức tranh mùa thu nơi quê hương xã Yên Đổ hiện lên thật đẹp đẽ, nên thơ.
Như vậy, cả hai bài thơ đều khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, nên thơ. Nếu như "Tiếng thu" là mùa thu của cõi thực với những hình ảnh gần gũi, thân thuộc thì "Thu vịnh" lại tái hiện mùa thu của cõi mộng - mùa thu trong tâm tưởng của thi nhân.
Bên cạnh những nét tương đồng, hai bài thơ cũng có những nét đối lập. Trong "Tiếng thu", nhân vật trữ tình hiện lên với khả năng lắng nghe tinh tế, với những cảm nhận vô cùng mới mẻ về mùa thu. Còn trong "Thu vịnh", nhân vật trữ tình xuất hiện với vai trò là thi nhân - người thi sĩ với tình yêu quê hương tha thiết.
Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với kết cấu đề - thực - luận - kết chặt chẽ. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật quen thuộc như từ láy, điệp từ,... để làm tăng thêm sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Qua hai bài thơ "Tiếng thu" và "Thu vịnh", ta càng thêm trân trọng những đóng góp của hai nhà thơ dành cho nền văn học nước nhà. Đồng thời, qua đây, thi nhân cũng muốn nhắn nhủ tới bạn đọc bài học về lẽ sống: Con người hãy luôn biết lắng nghe, cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan để thêm yêu, thêm quý thế giới xung quanh.