Nguyễn Khuyến (1835-1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ông để lại nhiều bài thơ nói về tình cảm gia đình, bạn bè, những sáng tác nói về mùa thu chiếm số lượng tương đối lớn và nổi bật trong số này là Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Cả ba bài thơ đều được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với chủ đề cùng phong cách. Tuy nhiên, mỗi bài lại có nét đặc sắc riêng.
Thu điếu thuộc về lĩnh vực cảnh vật nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Thu ẩm là đêm thu. Còn Thu vịnh là vịnh mùa thu. Như vậy, cả ba bài thơ đều nói đến mùa thu nhưng lại không trùng lặp nhau. Mỗi bài thơ đều có nét riêng độc đáo.
Cảnh mùa thu trong Thu điếu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ một ao thu làng quê. ở đây, mọi sự vật đều gợi lên cái hồn thu đậm đà. Ao nước trong veo, nước trong vắt nên mới nhìn thấy bầu trời xanh như thế nào: "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo". Bầu trời mùa thu cao vời vợi, màu xanh ngắt chứ không phải xanh lơ hay xanh ngà. Xanh ngắt gợi cho ta cái sâu, cái lắng của không gian. Cái động của gió nhẹ được cảm nhận bằng thị giác qua hình ảnh lá vàng khẽ đưa vèo trước mắt. Không gian được mở rộng ra chiều cao của bầu trời và chiều xa của đường thôn dài và nhỏ (quanh co). Trong bức tranh thu này mọi sự vật đều gợi cái tĩnh lặng và đượm buồn. Cái lạnh lẽo của nước, cái trong veo của nước, cái buồn bã của ao thu, của vườn thu (Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang - Tố Như), của màu xanh ngắt, của lá vàng khẽ đưa vèo, của con đường nhỏ quanh co... Sự cảm nhận về mùa thu có phần tinh tế. Cảnh vật dường như được thổi vào tâm hồn nhà thơ bởi ông tả được cái hồn thu hơn là vẽ nên một bức tranh thu.
Đêm thu được miêu tả trong Thu ẩm cũng mang cái hồn thu như thế. Nhưng nhà thơ ngắm cảnh thu trong lúc đã có chút men rượu say nồng. Mắt ông nhìn mọi vật khác lắm. Mọi vật hiện ra mà vẫn động đấy:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Mắt ông nhìn lên bầu trời và bắt gặp trăng, bắt gặp sao. Trăng vừa sáng vừa đẹp, vừa gần gũi thân thương. Sao thì nhiều, lấp lánh. Nhà thơ cảm nhận rất chính xác về trời và nước đêm thu. Trời quạnh vắng, mặt nước ao thu cũng gợn sóng. Có cái gì động đậy nhưng rất khẽ, rất nhẹ. Phải chăng đó là tiếng động duy nhất trong bài thơ? Tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo.
Không gian đêm thu yên tĩnh dường như tuyệt đối. Cái động rất khẽ của tiếng cá đớp mồi làm tăng thêm cái vắng lặng của đêm thu. Nhà thơ uống rượu một mình và cảm nhận cái hồn thu qua hình ảnh một chiếc thuyền câu bé tẻo teo trên mặt ao rải rác lá vàng. Thuyền câu đã trở thành thuyền mơ, đang bồng bềnh xuôi theo làn sóng biếc. Nỗi cô đơn của nhà thơ như bao trùm cả một không gian rộng lớn.
Bài thơ Thu vịnh thể hiện rõ nhất cái hồn thu và nỗi lòng của thi nhân. Ở đây có đầy đủ các hình ảnh, âm thanh, màu sắc của mùa thu: trời thu xanh ngắt, cần trúc lơ phơ, nước biếc, khói phủ, bóng trăng, hoa năm ngoái, tiếng ngỗng, trời xanh, nước biếc. Cái hồn thu được cảm nhận từ chiều cao, chiều rộng đến chiều sâu, được pha trộn giữa thực và ảo, giữa bay bổng mộng mơ với tình nghĩa triền miên.
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Bức tranh thu được mở ra đến với độ rộng của không gian. Màu sắc của bức tranh cũng có sự chuyển đổi: xanh ngắt, xanh biếc rồi đến màu trắng. Hình ảnh của bức tranh cũng có sự thay đổi: từ cần trúc đến song thưa. Tất cả đều tạo nên vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên. Thiên nhiên càng đẹp thì cảnh thu càng sống động. Bởi vậy, tâm trạng của nhà thơ cũng biến đổi theo sự vận động ấy: từ nỗi buồn man mác đến niềm vui rạo rực.
Nhà thơ như chợt tỉnh dậy trước vẻ đẹp của đêm thu. Cảm hứng của nhà thơ đến đây thật tự nhiên, thật hào hứng. Âm thanh của tiếng ngỗng vang lên trong màn sương khói làm xao động giấc mơ của thi nhân. Bức tranh thu bỗng bừng sáng lên và kết thúc bài thơ một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, hợp lí:
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều rất tiêu biểu cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các câu thơ hay của Nguyễn Khuyến đã đi vào lòng người mê thơ.