Hồ Xuân Hương là nữ sĩ nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, với phong cách thơ rắn rỏi, mạnh mẽ. Với tài năng của mình bà được người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Tự tình là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Hồ Xuân Hương. Đặc biệt trong đó Tự Tình II là bài thơ để lại nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bài thơ Tự tình mở đầu với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một người phụ nữ – hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng thật tiếc thay chữ “trơ” được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh sự bẽ bàng, cô đơn của con người ấy. Hồng nhan là vẻ đẹp của người con gái đang độ xuân thì. Thường thường, nhắc tới hồng nhan là người ta nghĩ ngay đến những sự chiều chuộng, cưng chiều, nhưng ở đây, trong khung cảnh đêm khuya vắng lặng, chỉ còn trơ lại mình nàng với vũng trăng bóng xế, dường như nàng đã bị bỏ quên ở nơi này, khiến cho nàng cô đơn, trơ trọi. Hai từ láy “trơ” và “cái” càng làm tăng thêm sự đáng thương của nhân vật trữ tình. Và đúng là hồng nhan thì đỏ thắm, tươi tắn nhưng ở đây nó lại “trơ” ra, nghĩa là chẳng ai nhìn thấy, cũng không ai công nhận. Tiếp sau hình ảnh “hồng nhan” trơ trọi là hình ảnh của chén rượu hương đưa. Nàng uống rượu giải sầu cho vơi đi nỗi buồn, nỗi cô đơn. Nhưng thật bất ngờ, chén rượu vừa mới kề môi mà hương rượu còn chưa ngấm thì nàng đã nhận ra tuổi thanh xuân của mình đang trôi nhanh quá. Tuổi xuân cứ thế mà chảy trôi mà nàng thì vẫn cô đơn lẻ bóng. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại của cuộc đời nàng. Nàng muốn thoát khỏi vòng xoáy đó bằng cách tìm đến với ánh trăng để mong mỏi một tấm chồng, nhưng ánh trăng ngoài kia lạnh lẽo vô cùng, ánh trăng ấy chẳng thể nào sưởi ấm trái tim nàng, thứ ánh sáng ấy càng khiến cho nàng trở nên cô độc.
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Hai câu thơ tiếp theo là tâm trạng của người phụ nữ cô đơn, trơ trọi. Không gian càng ngày càng được mở rộng:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Câu thơ là sự chán chường, ngán ngẩm của người phụ nữ trước số phận hẩm hiu, tình duyên trắc trở. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, đất trời, nhưng với con người thì tuổi xuân qua thì không bao giờ quay trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân lại lại” vừa có ngụ ý chỉ sự trở lại, vừa là sự mỉa mai, chua chát. Rõ ràng, Hồ Xuân Hương rất ý thức về vẻ đẹp, về tuổi trẻ, nhưng dường như càng ý thức được nó thì nàng lại càng xót xa cho số phận, tuổi xuân của mình. Đặc biệt, cụm từ “mảnh tình” cho thấy tình yêu son sắt, nồng nàn nhưng lại bị chia năm xẻ bảy, không được hưởng trọn vẹn. Câu thơ cuối là sự phẫn uất cao độ trước số phận hẩm hiu, éo le:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Yêu và khát khao hạnh phúc, nhưng hôn nhân của Hồ Xuân Hương lại không được viên mãn như những người phụ nữ bình thường khác. Bà phải chịu kiếp vợ lẽ, hạnh phúc luôn đứng trên bờ vực thẳm. Hai từ “chém cha” được đặt ở đầu câu, thể hiện sự phẫn uất cao độ của nhà thơ trước số phận nghiệt ngã của mình. Câu thơ cuối khép lại bài thơ nhưng lại mở ra cả một trường liên tưởng mới.
Như vậy, Tự tình là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ của Hồ Xuân Hương. Bài thơ chứa đựng cả ba yếu tố: vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ, bi kịch tình yêu, bi kịch thân phận và vẻ đẹp ngôn từ tài hoa, nghệ thuật điêu luyện dưới ngòi bút của thi tiên.