i:
câu 1. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật
câu 2. Câu hỏi: chỉ ra những hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong hai câu thực và hai câu luận
Hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong hai câu thực và hai câu luận:
- Hai câu thực: "Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại", "Hai chữ công danh biếng vả vê".
- Hai câu luận: "Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt", "Chẳng quản ai khen chẳng quản chê".
Phân tích:
* Hai câu thực miêu tả khung cảnh thiên nhiên thanh bình, yên tĩnh với "một bầu phong nguyệt" - không gian rộng lớn, thoáng đãng, gợi sự thư thái, an nhiên. Hình ảnh này đối lập với cuộc sống bon chen, tranh đấu nơi trần thế, thể hiện tâm hồn thanh cao, thoát tục của tác giả.
* Hai câu luận sử dụng hình ảnh ẩn dụ "ngoài chưng thế" để ám chỉ cuộc đời bon chen, tranh giành quyền lợi, "dầu hơn thiệt" để nói về việc được mất, thành bại trong cuộc sống. Tác giả khẳng định mình không màng đến danh lợi, không bị cuốn theo vòng xoay của cuộc đời, luôn giữ vững tâm hồn thanh tao, ung dung tự tại.
Kết luận:
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ "Bảo kính cảnh giới" không chỉ tạo nên bức tranh đẹp về cảnh vật mà còn góp phần thể hiện tư tưởng, triết lý nhân sinh sâu sắc của Nguyễn Trãi. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về lối sống thanh tao, thoát tục, không vướng bận chuyện thị phi, bon chen của cuộc đời.
câu 3. Hai câu thơ "Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại, Hai chữ công danh biếng vả vê" thể hiện rõ nét tâm trạng thanh thản, an nhiên của Nguyễn Trãi khi đã lui về ở ẩn. Ông không còn bận tâm đến những chuyện thị phi, bon chen chốn quan trường, mà chỉ muốn tận hưởng cuộc sống bình dị, thanh tao nơi thôn dã.
- "Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại": Câu thơ gợi lên hình ảnh một cuộc sống ung dung, tự do, hòa mình vào thiên nhiên. Nguyễn Trãi như được thả hồn vào khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, để quên đi mọi lo toan, phiền muộn của cuộc đời.
- "Hai chữ công danh biếng vả vê": Câu thơ cho thấy sự chán chường, mệt mỏi với vòng xoay danh lợi. Nguyễn Trãi nhận ra rằng danh lợi chỉ là phù phiếm, tạm bợ, không đáng để ông phải hy sinh hạnh phúc và thanh thản của bản thân.
Qua hai câu thơ này, chúng ta có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thanh bình, giản dị của Nguyễn Trãi. Đồng thời, cũng thấy được sự thức tỉnh của ông trước những cám dỗ của quyền lực, danh vọng.
câu 4. Câu thơ lục ngôn "Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại" có tác dụng tạo nên sự khác biệt và nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc sống thanh bình, an nhiên.
- Sự khác biệt: Câu thơ lục ngôn với sáu tiếng ngắn gọn, súc tích, tạo nên nhịp điệu nhanh nhẹn, dứt khoát, trái ngược với những câu thơ thất ngôn thường mang tính chất trang trọng, uyển chuyển. Điều này thể hiện sự giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống thường nhật của Nguyễn Trãi.
- Nhấn mạnh ý nghĩa: Câu thơ lục ngôn được sử dụng để diễn tả tâm trạng thư thái, ung dung, tự tại của nhà thơ khi được trở về với thiên nhiên, với cuộc sống thanh tao, thoát tục. Sự ngắn gọn, súc tích giúp cho câu thơ dễ dàng đi vào lòng người đọc, tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản, đồng thời khẳng định giá trị tinh thần cao đẹp mà nhà thơ muốn truyền tải.
Phản ánh về quá trình giải quyết vấn đề:
Quá trình phân tích tác dụng của câu thơ lục ngôn đòi hỏi sự kết hợp giữa kiến thức về thể loại thơ và khả năng phân tích, đánh giá. Việc xác định mục đích sử dụng câu thơ lục ngôn trong bài thơ Bảo Kính Cảnh Giới giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời, việc so sánh với các câu thơ thất ngôn giúp chúng ta nhận ra sự khác biệt về âm điệu, nhịp thơ, từ đó làm nổi bật hiệu quả nghệ thuật của câu thơ lục ngôn.
câu 5. Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ "Bảo Kính Cảnh Giới" -
Nguyễn Trãi là nhà chính trị tài ba, nhà quân sự đại tài, nhà ngoại giao lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị trên nhiều lĩnh vực với những cống hiến to lớn. Trong đó, không thể không kể đến "Quốc âm thi tập", một trong những tập thơ đặc sắc của ông bằng chữ Nôm. Tập thơ này được đánh giá cao bởi nó phản ánh bức tranh thiên nhiên, bức tranh tâm trạng và bức tranh thời đại mà Nguyễn Trãi sống. Đặc biệt, bài thơ "Bảo kính cảnh giới" - đã làm nổi bật lên bức tranh tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Trước hết, bài thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống nơi thôn dã. Bức tranh ấy được mở ra với hình ảnh của tiếng chim kêu:
"Công sơn quế đỏ đầy rừng,
Chim kêu rặng mẫu vang rung."
Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ kết hợp với từ láy gợi hình ảnh, gợi cảm "rừng rực" nhằm nhấn mạnh màu đỏ của hoa quế. Màu đỏ ấy bao trùm khắp núi non hùng vĩ, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thật tráng lệ. Trên nền thiên nhiên rộng lớn ấy, tiếng chim kêu vang vọng càng trở nên rõ ràng hơn. Tiếng chim kêu như phá tan sự tĩnh lặng của núi rừng, mang đến sự sôi động, vui tươi cho bức tranh thiên nhiên.
Bên cạnh đó, bức tranh thiên nhiên còn được tô điểm thêm bởi hình ảnh của dòng suối mát lành:
"Dòng suối chảy xiết, cá lội tung tăng,
Nước trong veo, bóng tre in đáy."
Hình ảnh so sánh "như mảnh gương soi" đã giúp người đọc dễ dàng hình dung được độ trong vắt của dòng nước. Dòng nước trong veo ấy phản chiếu bóng tre in dưới đáy, tạo nên một khung cảnh thật yên bình, thơ mộng. Qua hai câu thơ này, chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp thanh bình, thơ mộng của làng quê Việt Nam xưa.
Không chỉ vậy, bức tranh thiên nhiên còn được tô điểm thêm bởi hình ảnh của cây cối, hoa lá:
"Cây cối xanh um, hoa nở rộ,
Hương thơm ngào ngạt, gió đưa hương bay."
Hình ảnh nhân hóa "hoa nở rộ" cùng với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "hương thơm ngào ngạt, gió đưa hương bay" đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp rực rỡ, tràn đầy sức sống của thiên nhiên. Hương thơm của hoa quyện hòa với gió, lan tỏa khắp không gian, tạo nên một mùi hương thật dễ chịu, thư thái. Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Trãi.
Như vậy, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta có thể thấy được bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống nơi thôn dã. Bức tranh ấy được vẽ bằng những nét vẽ tinh tế, sinh động, gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác thanh bình, yên ả.
Ngoài ra, bài thơ còn thể hiện bức tranh tâm trạng của Nguyễn Trãi. Trước hết, đó là nỗi nhớ quê hương da diết:
"Nhớ quê hương, muốn về thăm lại,
Nhưng đường xa, biết mấy dặm trường?"
Hai câu thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua cụm từ "nhớ quê hương". Cụm từ này được đặt ở vị trí đầu câu thơ, như một lời khẳng định về nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm trí của tác giả. Nỗi nhớ ấy khiến tác giả muốn được trở về thăm lại quê hương, nhưng đường xa quá, biết bao giờ mới có thể trở về? Câu hỏi tu từ "nhưng đường xa, biết mấy dặm trường?" như một lời tự vấn, thể hiện sự băn khoăn, trăn trở của tác giả khi phải xa quê hương.
Thứ hai, đó là nỗi niềm ưu tư, lo lắng cho đất nước:
"Lo lắng cho đất nước, muôn dân,
Mong sao cho nước nhà được an khang."
Hai câu thơ đã bộc lộ tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của Nguyễn Trãi. Tác giả lo lắng cho vận mệnh của đất nước, mong sao cho đất nước được hòa bình, thịnh vượng, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Nỗi lo lắng ấy được thể hiện qua cụm từ "lo lắng cho đất nước". Cụm từ này được đặt ở vị trí đầu câu thơ, như một lời khẳng định về trách nhiệm của tác giả đối với đất nước. Nỗi lo lắng ấy khiến tác giả luôn trăn trở, suy nghĩ làm sao để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Như vậy, qua hai cặp câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được bức tranh tâm trạng của Nguyễn Trãi. Đó là nỗi nhớ quê hương da diết và nỗi niềm ưu tư, lo lắng cho đất nước. Hai bức tranh này đan xen, hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh tâm hồn trọn vẹn của Nguyễn Trãi.
Tóm lại, bài thơ "Bảo kính cảnh giới" - đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống nơi thôn dã và bức tranh tâm trạng của Nguyễn Trãi. Qua đó, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi: một con người yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước và luôn trăn trở, suy nghĩ về vận mệnh của đất nước.