avatar
level icon
Yami

12 giờ trước

viết một bài văn phân tích một tác phẩm thơ mà em đã từng học

thumb up 1
thumb down
Trả lời câu hỏi của Yami
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

12 giờ trước

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ "Ánh trăng" được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để gợi nhắc thái độ sống "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ gian lao mà hào hùng của dân tộc.

Văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã dành nhiều trang viết thấm đẫm cảm hứng ngợi ca. Bên cạnh hình tượng đất nước, chân dung người lính cũng trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận cho nhiều tác giả. Là nhà thơ quân đội, cầm bút trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Duy cũng góp vào đề tài này thi phẩm đặc sắc mang tên "Ánh trăng". Bài thơ giống như một câu chuyện nhỏ được tác giả sắp xếp trình tự theo mạch thời gian. Trong đó, hình ảnh "vầng trăng" được khai thác trên nhiều góc độ, và là chất liệu thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Duy đưa độc giả ngược dòng thời gian về với những tháng ngày tuổi thơ êm đềm, hình ảnh người lính trẻ nơi núi rừng Việt Bắc gắn bó thân thiết với thiên nhiên, vạn vật:

"Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ"

Từ "hồi" mở đầu mỗi câu thơ gợi ấn tượng về vòng thời gian kéo dài. Nó nhấn mạnh những kỉ niệm ấu thơ, những năm tháng chiến đấu gắn liền với hình ảnh "vầng trăng". Biện pháp liệt kê "đồng", "sông", "bể", "rừng" diễn tả sự thay đổi liên tục các hình ảnh, vừa cụ thể, vừa khái quát, gợi ra không gian rộng lớn, khoáng đạt, gần gũi thân thương. Những kí ức ấy luôn thường trực trong lòng người lính, bởi nó chứa đựng biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, đáng trân trọng.

Từ hồi nhỏ, trăng đã trở thành người bạn đồng hành, gắn bó với cuộc sống con người. Đến khi trưởng thành, vầng trăng tiếp tục trở thành người bạn "tri kỉ" của người lính trong đêm tối. Trăng soi sáng đường đi, giúp họ vượt qua những hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc. Trăng còn trở thành "vầng trăng hứa hẹn", mở ra ước mơ, hi vọng về ngày mai tươi sáng. Như vậy, xuyên suốt quãng thời gian tuổi thơ cho đến những năm tháng chiến đấu, vầng trăng vẫn luôn hiện diện, gắn bó mật thiết với cuộc sống con người.

Tác giả sử dụng từ ngữ giản dị, hình ảnh thơ mộc mạc mà giàu sức gợi, khơi gợi trong lòng người đọc cảm giác thân thương, gần gũi. Qua đó, chúng ta thấy được tình cảm gắn bó, sâu đậm giữa con người với vầng trăng.

Thế nhưng, khi cuộc chiến kết thúc, hoàn cảnh sống thay đổi thì dường như con người cũng thay đổi theo:

"Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường"

Câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng đã lột tả trọn vẹn sự thay đổi trong cuộc sống của con người. Giờ đây, họ sống trong những tòa nhà cao tầng, xa rời thiên nhiên. Vầng trăng - người bạn tri kỉ một thời giờ đây bị lãng quên, trở nên xa lạ như người dưng qua đường.

Sự thay đổi ấy xuất phát từ sự vô tâm, ích kỉ của con người. Họ chỉ biết quan tâm đến bản thân mà quên đi những gian khổ, vất vả, thậm chí cả hi sinh xương máu của bao thế hệ cha anh. Thái độ, cách ứng xử ấy thật đáng phê phán và lên án.

Ngỡ như trăng và con người mãi mãi gắn bó với nhau nhưng sự biến đổi của thời gian, hoàn cảnh đã khiến con người quên đi những giá trị đẹp đẽ trong cuộc sống. Điều đó đã được nhà thơ khắc họa một cách khéo léo ở phần hai của bài thơ.

Tình huống bất ngờ xảy ra:
"Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"

Khi đèn điện bỗng tắt, cuộc sống hiện đại, tiện nghi với "đèn điện", "của gương" bỗng chấm dứt, con người vội vàng tìm ánh sáng. Cửa sổ được "bật tung" và hình ảnh đầu tiên hiện ra trước mắt con người là "vầng trăng tròn".

Hình ảnh vầng trăng hiện lên thật đẹp với nghệ thuật miêu tả kết hợp ẩn dụ, cụ thể và khái quát. Vầng trăng tròn vành vạnh, tỏa sáng khắp căn phòng, chiếu rọi vào tâm hồn người lính xưa. Lúc này, con người mới nhận ra vẻ đẹp, giá trị của vầng trăng.

Giây phút gặp lại ngỡ ngàng, xúc động, hạnh phúc:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng"

Nhà thơ lặng lẽ "ngửa mặt lên nhìn mặt" vầng trăng. Rung động mãnh liệt, cảm xúc dồn nén, vỡ ra trong men say của tình thương mến. Nước mắt trào dâng trong niềm hạnh phúc tột cùng của sự đoàn tụ. Nhịp thơ hối hả, nồng nàn, như nhịp đập thổn thức của trái tim người lính.

Trong giây phút gặp lại người bạn cũ, bao kỉ niệm thân thương thuở thiếu thời chợt ùa về đánh thức khát khao về tình yêu quê hương tha thiết. Nhà thơ bồi hồi nhớ về những năm tháng gian lao để có được ngày hôm nay. Nhớ về đồng đội, nhớ về quê hương, nhớ về sông, về bể, về rừng, nhớ về tất cả những gì vô cùng thân quen, thân thương, những hình ảnh đã in sâu trong tâm trí, trở thành một phần kí ức của đời người.

Những hình ảnh, kỉ niệm đẹp đẽ ấy như một liều thuốc trị "căn bệnh" vô tâm của con người lúc này. Nó khiến họ bừng tỉnh, hướng thiện, sửa đổi cách sống.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ với bao dư âm ngọt ngào:

"Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình"

Vầng trăng "tròn vành vạnh" thể hiện vẻ đẹp tươi mát, vĩnh hằng của thiên nhiên, gợi nhắc về quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. Vầng trăng còn là biểu tượng của tình cảm nghĩa tình, thủy chung son sắt, bất diệt.

Trong thơ ca, trăng là hình ảnh được nhiều nhà thơ lựa chọn làm biểu tượng cho sự tròn đầy viên mãn, sự sum họp, đoàn tụ, niềm hạnh phúc ấm áp của con người. Với Nguyễn Duy, ánh trăng còn mang ý nghĩa sâu xa của đạo lí sống ân nghĩa, thủy chung.

Con người có thể vô tình, lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ luôn tròn đầy, bất diệt. Cái "giật mình" của người lính vừa mang ý nghĩa ăn năn, vừa mang ý nghĩa của sự thức tỉnh, hoàn thiện nhân cách.

Bằng việc sử dụng thể thơ năm chữ phù hợp với việc kể lại câu chuyện, kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, giọng điệu tâm tình được thể hiện qua kiểu câu định nghĩa, câu hỏi, lời bộc lộ cảm xúc,... cùng hình ảnh giàu tính biểu tượng, Nguyễn Duy đã gửi gắm thành công chủ đề tư tưởng của bài thơ. Đó là lời tự nhắc nhở thấm thía của nhà thơ về thái độ sống ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ.

Với giọng điệu tâm tình, nhịp thơ đa dạng, bài thơ "Ánh trăng" đã gợi nhắc truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam. Bài thơ có ý nghĩa đối với mọi thời, nhất là trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, khi con người phải đối mặt với không ít cám dỗ của đồng tiền và lợi ích vật chất thì bài thơ càng có ý nghĩa sâu sắc.

Như vậy, bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy là lời nhắc nhở về thái độ sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ. Tác phẩm có giọng điệu tâm tình, kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, cùng việc xây dựng hình ảnh ẩn dụ, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Marw

12 giờ trước

Chào em, trong chương trình Ngữ văn, bài thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương là một tác phẩm vô cùng xúc động, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Dưới đây là bài văn phân tích chi tiết tác phẩm này để em tham khảo nhé.

Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương
Mở bài
Viễn Phương là một trong những gương mặt tiêu biểu của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Thơ ông thường nhẹ nhàng, tha thiết, giàu tình cảm. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được viết năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Tác phẩm là tiếng lòng thành kính, vừa đau xót vừa tự hào của một người con miền Nam lần đầu ra thăm Bác.

Thân bài
1. Cảm xúc trước không gian bên ngoài lăng Mở đầu bài thơ bằng một lời chào thân thương, gần gũi: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác". Cách xưng hô "con - Bác" đầy ngọt ngào, đậm chất Nam Bộ, xóa tan khoảng cách giữa một vị lãnh tụ và một người dân. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả là hàng tre:

"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng."

Hình ảnh hàng tre không chỉ là cảnh thực bao quanh lăng mà còn là biểu tượng cho tâm hồn, cốt cách của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất và đoàn kết.

2. Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng Sử dụng biện pháp ẩn dụ sóng đôi đầy sáng tạo, Viễn Phương đã nâng tầm vóc của Bác lên ngang hàng với vũ trụ:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."

Mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng cho vạn vật, còn "mặt trời trong lăng" chính là Bác – người đã mang lại ánh sáng tự do, độc lập cho dân tộc Việt Nam. Điệp từ "ngày ngày" gợi lên nhịp thời gian vô tận, lòng dân đối với Bác cũng vĩnh cửu như sự vận động của đất trời. Dòng người vào lăng được ví như "Tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân", thể hiện sự tôn kính tuyệt đối dành cho cuộc đời hiến dâng trọn vẹn của Người.

3. Niềm xúc động khi đứng trước linh cữu Người Vào trong lăng, không gian trở nên tĩnh lặng và trang nghiêm:

"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền."

Bác như đang ngủ một giấc ngủ dài sau bao năm bôn ba lo cho nước, cho dân. Hình ảnh "vầng trăng" gợi lên tâm hồn thanh cao, sáng trong của Bác. Dù lý trí biết Bác vẫn sống mãi với non sông "Vẫn biết trời xanh là mãi mãi", nhưng trái tim tác giả vẫn không tránh khỏi nỗi đau xé lòng: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Chữ "nhói" diễn tả nỗi đau đột ngột, tê tái khi đối diện với sự thật nghiệt ngã là Người đã đi xa.

4. Tâm nguyện trước khi trở về miền Nam Khổ thơ cuối là lời từ biệt trong nghẹn ngào:

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt."

Tình cảm ấy không thể kìm nén mà trào dâng thành dòng lệ. Nhà thơ khao khát được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng: làm con chim hót, làm đóa hoa tỏa hương, và đặc biệt là làm "cây tre trung hiếu". Hình ảnh hàng tre ở đầu bài thơ nay trở lại nhưng mang thêm ý chí nguyện thề trung thành với con đường mà Bác đã chọn.

Kết bài
Bằng giọng điệu truyền cảm, sâu lắng, cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, Viễn Phương đã thay lời hàng triệu con người Việt Nam nói lên lòng biết ơn vô hạn với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ không chỉ là nén hương thơm dâng lên Người mà còn là lời nhắc nhở thế hệ sau về đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
location.svg Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Đào Trường Giang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved