Phân tích đoạn trích Ngục Kom Tum (Trích Ngục Kom Tum của Lê Văn Hiến)
Bình giảng bài thơ Tống biệt hành
Phân tích đoạn trích Mưu trí của Chiêu Vũ của Nguyễn Khoa Chiêm.ông - Nguyễn Đình Chiểu
Cảm nghĩ về Cuộc đấu tranh lưu huyết ngày 12-12-1931nh - Cao Bá Quát
Bài đọc tham khảo về tập phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố
Phân tích bài phóng sự Góc chiếu giữa đình của Ngô Tất Tố.
Phân tích đoạn thơ sau đây Sở Bá Vương ngồi yên....bận lòng vì phận bạc.
Bình giảng bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Tống biệt hành của Thâm Tâm
Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải
Phân tích bài thơ Bài ca lưu biệt của Huỳnh Thúc Kháng.
Cảm nghĩ về bài Đốc chiến Chiêu Vũ trích trong Nam triều công nghiệp diễn chí
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ
- Giới thiệu khái quát về bài thơ Bài ca ngất ngưởng
- Giới thiệu về cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng.
2. Thân bài
a. Cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở cách ông tự khoe tài, khoe danh vị của mình
- Nguyễn Công Trứ đã khoe hết, phô diễn hết những cái danh vị của bản thân mình, khoe hết cả cái tài văn võ song toàn của bản thân với một thái độ đầy tự hào của một con người ý thức rõ tài năng, danh vị của mình.
- Những cái tài mà ông khoe ra với mọi người mang một nội hàm ý nghĩa khá rộng, xét đến cùng nó gắn với chuyện kinh bang tế thế: "Hi Văn tài bộ" rồi "Thủ khoa", "Tham tán", "Tổng Đốc đông",...
=> Việc ông thị tài khoe tài không chỉ là cách ông thể hiện cái ngông, cái ngất ngưởng của mình mà hơn thế nữa đấy còn là cách thị tài, khoe tài của một con người tự ý thức một cách rõ nét về tài năng và những cống hiến, nỗ lực của bản thân mình.
b. Cái tôi ngất ngưởng với phong cách sống khác đời, khác người
- Nguyễn Công Trứ lại lựa chọn sống cuộc đời bình dị, thậm chí là "nên dạng từ bi".
- Dù đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh mà ông vẫn đã mang theo "một đôi dì" - những nàng hầu xinh đẹp với "gót tiên đủng đỉnh" - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, một việc làm khác người khiến đến ngay cả ông bụt cũng phải "nực cười ông ngất ngưởng"
c. Bản lĩnh sống của một con người tài năng, không quan tâm tới việc được - mất, khen - chê
- Dẫu ông có một phong cách sống, một lối sống khác người, khác đời nhưng ông chưa một lần quan tâm, để ý tới việc người đời sẽ khen chê mình như thế nào và mình có thể dành được hay mất đi những gì
- Nguyễn Công Trứ là một nhà nho chân chính bởi vậy tư tưởng nhà Nho vẫn luôn sống mãi trong ông, đó chính là tư tưởng trung quân ái quốc như ông đã từng nói:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
3. Kết bài
- Khái quát về cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng và nêu cảm nghĩ của bản thân.
Bài mẫu
Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ, người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Ở họ, văn với người là một, con người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất, nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho nên, qua Bài ca ngất ngưởng, ta có thể hình dung rất rõ chân dung một Nguyễn Công Trứ tự họa.
Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người ngất ngưởng. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ông Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ của Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tới Chí nam nhi, Chí làm trai, Chí tang bồng, Phận sự làm trai, Nợ nam nhi, Nợ tang bồng... Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà Nho chân chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng một giọng điệu ngất ngưởng, ngang tàng. Cứ xem cách xưng hô ở câu thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là Ông Hi Văn, giới thiệu chính mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như đã vào lồng, ta cũng đủ thấy rất rõ thái độ người viết vừa trang nghiêm, lại vừa như hài hước.
Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm quan đương chức: Khỉ Thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông. Hoặc Lúc bình Tây, cờ đại tướng; có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách ngất ngưởng càng thêm ổn đinh. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã tháo cũi, sổ lồng, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông càng trở nên ngất ngưởng. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống có vẻ khác người, ngược đời: người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và ung dung trong tư thế:
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời:
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện binh thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong; hãy quẳng gánh lo đi mà vui sống (Lâm Ngữ Đường):
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều điều lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, ngông nghênh kiểu Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự thách thức, một sự chòng ghẹo cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy của ông được bắt nguồn, từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú. Chẳng thế mà ông đau đáu một tấm lòng trước sau thủy chung như nhất: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Câu thơ rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào thời kì mà nhà Nguyễn Mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh thần cho cả một tầng lớp Nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
Đã sinh ra ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông.
Ông tâm niệm thế và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.
Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thìa; vừa như tự bạch của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời. Đúng là câu thơ và cả bài thơ cũng ngất ngưởng như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyền Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân.
Unit 4: Home
Unit 2: Leisure time
Chủ đề 1. Dao động
Thu vịnh - Nguyễn Khuyến
Chủ đề 1. Cách mạng tư sản và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
Soạn văn chi tiết Lớp 11
SBT Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SBT Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SGK Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11
SBT Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Soạn văn siêu ngắn Lớp 11
Tác giả - Tác phẩm Lớp 11