Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Hoài Thanh từng nhận định "mỗi trang văn đẹp soi bóng thời đại mà nó đã đời" quả thực đúng như thế. Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang cho mình ý nghĩa văn chương mà còn mang tầm vóc lịch sử. Bình Ngô Đại Cáo là một kiệt tác như vậy, đó không những là áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi mà còn có ý nghĩa như một bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Khổ thứ 4 chính là lời khẳng định tin tưởng vào tương lai thái bình thịnh trị của đất nước.
Nguyễn Trãi quê ở Chí Linh Hải Dương. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, hiếu học. Tuổi thơ của ông trải qua nhiều tai ương và đau thương ông trở thành một trong những nhà yêu nước lỗi lạc. Nguyễn Trãi luôn được nhớ tới như một truyền kỳ vừa là một nhà tư tưởng, nhà chính trị đại tài của dân tộc, một bậc anh hùng. Người đã có công trong việc phò tá vua Lê xây dựng nghiệp lớn vừa là một nhà văn nhà thơ kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam. Chủ nghĩa anh hùng yêu nước của ông thể hiện rất rõ nét trong nhiều kiệt tác văn chương. Đại cáo bình ngô được Nguyễn Trãi sáng tác cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh, đồng thời tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi kết thúc thắng lợi. Mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới kỷ nguyên của độc lập tự do và hòa bình. Bình Ngô đại cáo được xem như một văn bản mang tính chất là một bản Tuyên Ngôn Độc Lập thể hiện ở điểm chính trị và tư tưởng nhân đạo sâu sắc và cốt lõi là tình yêu thương con người.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật Nguyệt hối rồi lại minh
Vết nhục nhã ngàn năm sạch làu
Muôn thuở nền Thái Bình vững chắc
Khổ thơ thứ tư là lời tuyên bố trịnh trọng với nhân dân về việc kết thúc chiến tranh khẳng định độc lập chủ quyền thái bình vững chắc của đất nước trong niềm vui lớn của dân tộc. Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi tuyên bố tới nhân dân bằng giọng văn vừa phấn chấn vừa tự hào:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Sự thắng lợi đó như là trái ngọt của cuộc đấu tranh đầy khó khăn gian khổ. Từng câu chữ mang âm điệu vang dội, tuyên bố nền hòa bình của đất nước ta. Điệp từ "từ đây" kết hợp cùng những tính từ "vững bền", "đổi mới" một lần nữa khẳng định niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, huy hoàng của đất nước. Xã tắc được vững bền, giang sơn được thay da đổi thịt mọi miền quê trên đất nước người dân được sống trong an lạc. thái bình.
Sau bao hy sinh mất mát bởi cuộc chiến tranh chống quân thù đất nước được yên bình trở lại, đó là niềm vui sướng không sao kể siết. Những gì đang có được hôm nay được tạo nên từ quá khứ hào hùng anh dũng của ông cha, của nghĩa quân Lam Sơn
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật Nguyệt hối rồi lại minh
Đây là một quy luật tất yếu trong sự phát triển của xã hội. Thời đại nào xã hội cũng có sự đổi thay, luôn luôn vận động, đó là quy luật vận động của thế giới, của tự nhiên và xã hội. Đổi thay là điều hiển nhiên cũng như càn khôn bĩ rồi lại thái cũng, như nhật nguyệt hối rồi lại minh. Tất cả sự thay đổi đều có cơ sở tạo tiền đề cho sự vững bền, thịnh trị của dân tộc. Đồng thời ta thấy được sự quyết tâm của nhân dân Đại Việt trong việc xây dựng một đất nước thái bình thịnh trị, phát triển tươi đẹp muôn thuở. Nền Thái Bình vững chắc ngàn thu. Thấu hiểu những gian lao trong quá khứ ta càng thêm trân trọng nền Thái Bình vững chắc giá trị độc lập chủ quyền. Bản đại cáo được tạo ra bởi những tư tưởng nhân văn truyền thống đạo lý của dân tộc, một loạt các từ ngữ chỉ thời gian như muôn thuở ngàn thu được tác giả đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh hơn niềm tin, hy vọng của tác giả, của nhân dân và nền thái bình của đất nước trong một tương lai lâu dài.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ
Trong niềm vui sướng ấy không quên cảm tạ trời đất những lời cảm ơn chân thành. Cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy. Có thể nói đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã trở thành một truyền thống tốt đẹp từ ngàn xưa, nó đã đi từ đời sống bước vào trong văn học. Để có được nền hòa bình như hôm nay là nhờ thiên thời, địa lợi, nhân hòa nhờ đất trời, cha ông âm thầm giúp đỡ. Đồng thời sự đồng sức đồng lòng của nhân dân, tướng sĩ, từ tài năng lãnh đạo của những bậc anh hùng, từ nền tảng trọng nhân nghĩa yêu chuộng hòa bình. Đó là điểm tựa từ hàng trăm năm trước và trở nên vững chắc cho hàng trăm năm sau. Chính sức mạnh truyền thống và sức mạnh của thời đại tạo nên một chiến thắng oanh liệt ngàn năm để con cháu đời sau tự hào góp phần giữ vững nền Thái Bình của nước Việt.
Lời kết thúc bài cáo vừa trang trọng chân thành, chia sẻ niềm vui niềm tự hào của tác giả đối với nhân dân cả nước qua đó khích lệ nhân dân cùng chung sức xây dựng nước nhà vững bền phát triển để xứng đáng với những hy sinh của thế hệ cha anh trong quá khứ. Từ đây dân tộc ta bước sang một trang sử mới. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng mang tới niềm vui sướng tự hào cho mọi người dân đất Việt, dân tộc ta từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh hướng tới một tương lai tươi sáng một kỷ nguyên xây dựng đất nước độc lập hòa bình.
Đây không chỉ đơn giản là lời tuyên bố kết thúc mà còn là niềm tin tưởng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước. Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của giặc ngoại xâm, ca ngợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Đây được coi là tuyên ngôn độc lập tuyên bố về nền độc lập của dân tộc, là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nhìn đời sau của đất nước ta. Nó không chỉ sâu sắc về nội dung mà còn vẹn toàn về nghệ thuật. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường.
Ngoài giá trị nhân đạo sâu sắc Bình Ngô đại cáo mang nét đặc sắc với lời văn hình tượng, ngôn ngữ trang trọng kết hợp hình tượng tráng lệ, kỳ vĩ, các thủ pháp nghệ thuật so sánh, cảm thán được Nguyễn Trãi sử dụng tinh tế gợi cảm giác kỳ lạ. Khí văn mạnh mẽ mang âm điệu anh hùng ca. Đã qua nhiều thế kỷ, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng nhưng Bình Ngô đại cáo vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Đó là bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một đoạn văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần của Nguyễn Trãi.
Kết thúc Bình Ngô đại cáo kết thúc khúc khải hoàn ca anh hùng sáng chói cả một thời đã hội tụ biết bao cảm xúc. Là tiếng chuông ngân vang vọng từ quá khứ dội về, khiến chúng ta dù ở thời đại nào cũng thấy tự hào kiêu hãnh.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lòng yêu nước thương dân, tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng gần gũi với nhân dân. Và có thể nói Bình Ngô Đại Cáo là tác phẩm thể hiện sâu sắc và đầy đủ nhất tư tưởng đó của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô Đại Cáo ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa, buộc quân Minh phải rút về nước, nước ta được độc lập, không còn kẻ thù. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Nguyễn Trãi đã vâng lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô Đại Cáo hay còn gọi là Đại Cáo Bình Ngô chính thức công bố với thiên hạ vào tháng Chạp năm Ất Mùi, tức là năm Ất Mùi, đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.
Bình Ngô Đại Cáo được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo – một thể loại văn học chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đi sâu tìm hiểu về thể loại văn này, chúng ta dễ dàng nhận thấy cáo là một thể loại văn viết bằng chữ Hán, có thể viết bằng văn xuôi hoặc câu đối nhưng có lẽ thông dụng nhất là văn xuôi con lắc. Cáo là một thể loại văn thường được các vua, chúa hay các quan sử dụng để thông báo rộng rãi với mọi người về một sự kiện hoặc vấn đề quan trọng. Cũng như nhiều thể loại văn cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu mạch lạc, lập luận sắc bén, lập luận thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm hình thức như trên, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc trưng của thể loại văn học này.
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Mãi mãi là nền hòa bình vững chắc. Như một quy luật tất yếu: “bí mà thái”, “hối mà lại minh”, đất nước ta sau 20 năm bị quân Minh “dối trời, gạt dân… xâm lăng, “ngàn năm tủi nhục” Tổ Quốc Việt Nam Vĩ Đại bước vào kỷ nguyên mới độc lập, hòa bình, thịnh vượng “bền vững”, tiến tới “đổi mới”, “vững chắc” mãi mãi. Giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, tràn đầy tự hào, tin tưởng, thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc ta hạnh phúc. Sở dĩ Bình Ngô đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là cội nguồn, là nguyên nhân của chiến thắng. Sự nghiệp của “Bình Ngô Đại Cáo” là một trang sử vàng chói lọi, “Một áo nhung thắng ngàn năm ghi công…”
Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là quân sư “có tâm tuân thủ pháp luật”, cánh tay phải của Lê Lợi, là “người soạn thảo tài ba” (Lê Quý Đôn). Thư của ông gửi tướng giặc Minh “khỏe như vạn quân” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi, Lê Lợi làm nên sự nghiệp “Bình Ngô”, người soạn thảo Bình Ngô Đại Cáo, bản tuyên ngôn độc lập và hòa bình của Đại Việt ở thế kỷ XV.
Bình Ngô Đại Cáo cho ta thấy phong cách vô song và tài học thuật của Trai. Giã từ là một lời dụ rất trang nghiêm, nhằm thông báo với toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp của “Bình Ngô” kéo dài 10 năm. Quân dân ta đã trải qua bao gian khổ, thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng từ những năm tháng gian khổ cho đến ngày toàn thắng “bốn phương trời yên biển lặng”, nhưng Nguyễn Trãi đã viết một cách cô đọng: Cáo dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, chủ nghĩa anh hùng và khát vọng độc lập, hòa bình đã làm nên tầm vóc văn học và màu sắc sử thi của bản Đại cáo Bình Ngô, bản hùng ca của nước Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và chính luận, vừa sắc sảo, sâu sắc, vừa đa thanh; có lúc đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, có lúc dữ dội, có lúc mạnh mẽ, uy nghiêm. Đất nước và con người Đại Việt được nhắc đến trong bài cáo là một đất nước, một dân tộc văn hiến, anh hùng.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Trong dòng thơ ca ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi được coi là “áng thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các thế hệ người Việt Nam luôn yêu quý và tự hào.
Bình Ngô Đại Cáo được Nguyễn Trãi viết theo lệnh của Lê Lợi vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước và rút quân về nước của chúng, và chúng ta đã giữ vững độc lập, tự chủ và hòa bình. Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc, bậc toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, cây đại thụ đầu tiên của nền văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo được Nguyễn Trãi viết theo thể tự sự, một thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng chữ Hán, thuộc thể loại chính luận, với nội dung thông báo một chủ trương, một sự kiện quan trọng những sự kiện liên quan đến quốc gia, dân tộc, được công bố trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa như một lời thông cáo hùng tráng tuyên bố đã bình định được giặc Ngô – cái tên mang hàm ý khinh thường quân Minh xâm lược. Báo cáo có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, được viết bằng văn xuôi, sử dụng ngôn ngữ đặc sắc và sử dụng hệ thống hình ảnh sinh động, giàu sức gợi.
Đoạn một nêu bật luận điểm chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Đại Việt ta cũng vậy”. “. Đã được một thời gian dài. / Đã lâu chúng ta mừng một nền văn hiến”. Đoạn 2 của bản cáo trạng vạch trần và tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh. Bọn giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị vô nhân đạo, giết người dã man. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu lên nỗi thống khổ, lầm than của nhân dân và dân tộc ta dưới ách đô hộ, mang ý nghĩa như một bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, buổi đầu khởi nghĩa gặp rất nhiều khó khăn, lương thực, binh lính, nhân tài đều thiếu thốn, nghĩa quân ở vào thế yếu, nhưng nghĩa quân do Lê Lợi lãnh đạo đã khôn ngoan, ngoan cường, nghĩa tình. Vận dụng cách đánh phù hợp, nghĩa quân Lam Sơn ngày càng trưởng thành và ngày càng lập được nhiều chiến công giòn giã, vang dội. Giặc bị đánh bại liên tiếp, trận sau còn bi tráng hơn cả tr sửa đổi một. Tất cả các tướng địch bại trận đều có nỗi xấu hổ riêng: có người treo cổ tự tử, có người quỳ gối xưng tội, có người bị làm nhục. Đoạn đầu của phóng sự còn ca ngợi lòng nhân đạo, yêu chuộng hòa bình của quân và dân ta đã tha cho quân địch đầu hàng, cung cấp phương tiện, lương thực để chúng trở về quê hương. Đoạn cuối của bản cáo trạng trịnh trọng tuyên bố chấm dứt chiến tranh, khẳng định nền độc lập của đất nước và nền hòa bình lâu dài, bày tỏ niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Và ở phần 4 – phần cuối, Nguyễn Trãi không giấu nổi niềm vui chung của cả dân tộc, thay Lê Lợi long trọng tuyên bố nền độc lập muôn đời:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Từ đó thấy được viễn cảnh huy hoàng, tươi sáng của núi sông Xã Tắc. Có được thực tại hôm nay là nhờ những ngày đau thương năm xưa “Muôn đời thái bình ổn định”. Đoạn kết “Báo xa gần/ Ai cũng hay” chia sẻ niềm vui, niềm tự hào và niềm tin về ngày mai, về tương lai đất nước.
Phóng sự đã thể hiện thành công đặc trưng của thể loại. Bên cạnh đó, giọng điệu biến đổi linh hoạt ở từng phần, có lúc thiết tha than thở, có lúc dữ dội hào hùng, khi cuộn trào như thủy triều về đề tài lịch sử – văn học đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Sự hiểu biết về lịch sử, sự kiện lịch sử, truyền thuyết của Nguyễn Trãi đã làm cho tác phẩm trở nên thuyết phục và hấp dẫn hơn.
Từ khi ra đời, Bình Ngô Đại Cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của quân Minh xâm lược, vừa khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm nhưng giá trị của Bình Ngô Đại Cáo vẫn tồn tại cho đến ngày nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lão thành, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất sẽ đời đời được ghi nhớ khắc sâu trong tâm hồn mỗi người con đất Việt.
Chương 13. Phát triển bền vững và tăng trưởng xanh
Chương V. Một số nền văn minh trên đất nước Việt Nam (trước 1858)
Đề thi học kì 2
Cuộc tu bổ lại các giống vật
Chủ để 2. Vai trò của Lịch sử
Chuyên đề học tập Văn - Cánh diều Lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Kết nối tri thức lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Cánh diều lớp 10
Văn mẫu - Kết nối tri thức
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Chân trời sáng tạo lớp 10
Văn mẫu - Chân trời sáng tạo
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Lý thuyết Văn Lớp 10
SBT Văn - Cánh diều Lớp 10
SBT Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
SBT Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - siêu ngắn Lớp 10
Tác giả tác phẩm Lớp 10