Bản chất của văn chương là sự sáng tạo. Nhà văn thực sự là người “biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Vậy nên, dù viết về đề tài đã cũ, nhà văn sáng tạo sẽ vẫn có lối đi riêng để thổi vào tác phẩm của mình những luồng gió mới mẻ gợi rung cảm sâu xa trong lòng người đọc. “Lính đảo hát tình ca trên đảo” của Trần Đăng Khoa là một bài thơ mang “luồng gió mới” ấy. Bài thơ viết về đề tài không mới: Người lính, nhưng vẫn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc, lâu bền. Ấn tượng ấy người đọc có thể cảm nhận phần nào qua hai khổ thơ đầu:
Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa
Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn
Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác ấy đã tạo nên thế giới nghệ thuật riêng của thơ ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sáng tác ngoài vùng sở trường của ông lại mờ nhạt, nghèo nàn. “Lính đảo hát tình ca trên đảo” là minh chứng chứng tỏ sự đa dạng trong các góc nhìn tiếp cận cuộc sống cũng như tài năng thơ ca của Trần Đăng Khoa
Cùng hát chung khúc hát về người lính, “Lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng điệu riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời từng đi vào bao lời ca, khúc hát. Nhưng qua sự thể hiện của Trần Đăng Khoa, hình ảnh ấy vừa quen mà vừa lạ, vừa như đã hiện diện đâu đây trong “Gần lắm Trường Sa ơi”, “Biển một bên và em một bên”…; vừa như mới lần đầu gặp gỡ. Lần đầu mà đã yêu, đã mến biết bao.
Đoạn thơ kể với người đọc về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu phải chỉ có khô cằn, cứng nhắc trong điều lệ, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng gió biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ của mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng đậm chất lính
Điều đặc biệt là sân khấu biểu diễn của họ chẳng hề được chuẩn bị cầu kì như lẽ thường phải thế. Sân khấu được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn bằng vài tấm tôn “tạm bợ”:
Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn sẵn có trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó nói lên rất nhiều thứ thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước những năm 80 còn rất nghèo, người lính ngoài đảo xa còn khó khăn, vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan “biện luận” bằng một lý do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính thì sự “tạm bợ” của họ không hẳn là vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì:
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa
Thật dễ cảm thông biết bao với cái lí do “bất khả kháng” ấy. Đọc câu thơ này của Trần Đăng Khoa, ta chợt nhớ đến bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vậy đó.
Qua sự phân trần của người lính về lí do cho sự tạm bợ, người đọc lại hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt bội phần:
Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Lời thơ làm hiện lên trong trí tưởng tượng mỗi người đọc hình ảnh về một Trường Sa nhiều nắng gió. Gió Trường Sa như cộng hưởng sức mạnh của thiên nhiên, mang đến những cảm nhận không phải là “Gió đưa cành trúc la đà”, cũng không phải là “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”… mà là “gió rát mặt”. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tung sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… Hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên Trường Sa, bởi không ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Lời thơ như có sự cộng hưởng của những vần thơ Trần Đăng Khoa từng viết trong “Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài”:
Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời
Đến một cái gai cũng không sống được
Sớm mở mắt, nắng lùa ngun ngút
Đêm trong lều như trôi trong mây…
Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả là thế, nhưng thật thú vị, người lính nói về điều đó một cách bình thản, bình thản như đó là một phần của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại, họ vẫn sống lạc quan, yêu đời:
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…
“Cứ mặc nó” – người lính bỏ lại tất cả những khó khăn phía sau để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời ca tiếng hát, niềm vui không phải chuẩn bị cầu kì, niềm vui đậm chất lính. Sự đối lập giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính trong hai câu này là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần Đăng Khoa đã mượn cái gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống để làm “đòn bẩy” nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính. Người lính trong câu thơ này có nét gì đó tương đồng với người lính trong thơ của Phạm Tiến Duật:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Họ giống nhau ở tinh thần bất khuất, dù trong hoàn cảnh nào cũng không khuất phục trước khó khăn, ngược lại còn luôn nhìn thấy và cảm nhận niềm vui trong những vất vả, nhọc nhằn.
Cách nói "mây nước đã mở màn" của Trần Đăng Khoa thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu dựng giữa trời nước mênh mông nên "mây nước mở màn" là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiếu phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước của biển khơi. Cũng "hoành tráng" và lộng lẫy lắm chứ? Nếu chàng lính trong "Tây Tiến" hiện lên với cái nhìn tinh nghịch "súng ngửi trời" khi nói về độ cao của dốc núi, thì người lính trong bài thơ này cũng tếu táo không kém khi nói về sân khấu đặc biệt của mình bằng hình ảnh "mây nước đã mở màn". Mỗi nhà thơ có cách biểu đạt khác nhau nhưng đều phát huy tối đa sức mạnh của ngôn từ để mang đến cho người đọc những cảm nhận độc đáo, mới lạ.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh, đối lập khác lạ, hai khổ đầu bài thơ "Lính đảo hát tình ca trên đảo" là những nét vẽ đầu tiên về người lính đảo Trường Sa. Qua mấy nét phác thảo đơn sơ ấy người đọc có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả của người lính nơi biển đảo xa xôi cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan, yêu đời của họ. Tình cảm đầy ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc lộ một cách tự nhiên, chân thành.
Unit 3: Community services
Chủ đề 7: Hệ thống chính trị nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bài giảng ôn luyện kiến thức cuối học kì 1 môn Sinh học lớp 10
Bài giảng ôn luyện kiến thức cuối học kì 2 môn Toán lớp 10
Đề thi học kì 1
Chuyên đề học tập Văn - Cánh diều Lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Kết nối tri thức lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Cánh diều lớp 10
Văn mẫu - Kết nối tri thức
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Chân trời sáng tạo lớp 10
Văn mẫu - Chân trời sáng tạo
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Lý thuyết Văn Lớp 10
SBT Văn - Cánh diều Lớp 10
SBT Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
SBT Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - siêu ngắn Lớp 10
Tác giả tác phẩm Lớp 10