15/10/2023
15/10/2023
- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ “tràng giang” – huy cận đã gợi cho người đọc một nét buồn man mác mà day dứt
+ Cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ.
+ Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả.
+ Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ‘’ nước ‘’, ‘’ con nước’’, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ ‘’ cồn nhỏ’’, ‘’ bờ xanh’’, ‘’ bãi vàng’’, ‘’ sóng gợn’’..
- Sự khác biệt của bài thơ “ tràng giang” so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ (thực hiện những so sánh cần thiết để chỉ ra được sự khác biệt).
Không gian Tràng giang không chỉ rộng dài, cao sâu tuyệt đối, vô cùng mà qua những bộ mã ngôn từ mà Huy Cận đưa đến độc giả, ta còn nhận ra một Tràng giang hoang vu, vắng lặng cũng vô cùng, tuyệt đối. Tràng giang chính vì đã vững chãi trên ngai vàng Tuyệt đích, thế nên chẳng khác nào một không gian rơi vào quên lãng, cách li hoàn toàn với sự sống của con người. Có thuyền trên sông nhưng “thuyền xuôi mái” chẳng bàn tay người chèo lái, dẫn đưa; có làng nhưng tiếng làng xa ngái như có như không, có chợ nhưng chợ chiều đã tắt tiếng người; rồi không đò, không cầu. Chỉ có riêng một cái Tôi lằng lặng cùng sóng nước, càng khát khao tình đời, tình người, càng cố nương theo ngọn “gió đìu hiu” đi tìm hơi thở cuộc sống thì càng thật vọng, ê chề. Không gian cồn nhỏ “lơ thơ” giữa sóng nước là sự thu nhỏ của Tràng giang giữa biển đời. Một không gian chơi vơi, và như bị quên lãng, không ai nhắc tên, không ai nhớ đến.
Lí giải không gian nghệ thuật của Tràng giang như là tiêu biểu cho khung cảnh thiên nhiên quê hương, đất nước dẫn ta tới vẻ đẹp trù phú của một vùng trên lãnh thổ nước nhà, và giúp ta cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào của Huy Cận đối với cảnh sắc quê hương. Chính tình yêu, niềm tự hào ấy khiến: “Thơ viết về thiên nhiên đất nước là một sở trường, một điểm mạnh của Huy Cận”[16]. Nhưng từ góc nhìn của Mỹ học Thơ mới, không gian sông nước của Tràng giang xứng đáng được coi là biểu hiện của cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao Siêu. Sau này, nghệ thuật là cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao siêu trở thành quan niệm nghệ thuật, quan điểm mỹ học có tính chất tông chỉ của nhóm Xuân Thu và Dạ Đài. Nhưng vì đi quá xa và cực đoan hóa về mặt quan niệm – tư tưởng, vậy nên, nhóm Xuân Thu vô tình đã khiến văn nghệ bị phủ lấp bởi một màn sương bí ảo, li gián hiện thực. Nghệ thuật mà Xuân Thu đề cao thuần túy nảy sinh, tồn tại rồi cũng tự phục vụ (tức tự cung tự cấp) trong cõi vô thức, tâm linh, khó mở rộng được phạm vi ảnh hưởng tới độc giả. Không gian Tràng giang được đón nhận nồng nhiệt đến vậy ắt bởi cái Tuyệt đích, Vô cùng, Cao siêu mà Huy Cận mang đến đêu bắt rễ từ tình yêu quê hương đất nước, từ khát khao giao cảm chân thành trong trái tim của một người nghệ sĩ.
- Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ ‘tràng giang” – huy cận (cần nêu cụ thể)
Trong bài thơ, Huy Cận cứ nhắc mãi về cái ấn tượng “trời rộng”, “sông dài” từ lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đến tận câu thơ cuối khổ thứ hai: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian được mở ra ở tầm thấp lẫn tầm cao: trên là “trời rộng” thênh thang, dưới là “dòng dài” miệt mài chảy trôi, kéo mãi tới tận chân trời. Ấn tượng về sự “rộng” “dài” của không gian được tấu lên từ dòng thơ đầu của khổ thứ nhất: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Sóng trên mặt sông chỉ “gơn”, chỉ lăn tăn, miên man không dứt khiến dòng sông mềm như một dải lụa, uốn nhẹ thân mình trong gió chiều miên man. Từ láy “điệp điệp” trước nhất miêu tả động thái của từng lớp sóng sông. Từng con sóng nhỏ nối đuôi nhau, kéo nhau hết lớp nọ đến lớp kia đưa nhau đến tận cùng khoảng giới hạn của đường chân trời xa xăm. Nói là giới hạn, chứ biết đường chân trời chẳng qua chỉ là cái giới hạn tương đối mà con người tự huyễn hoặc để thỏa mãn nhu cầu chiếm lính vũ trụ của mình. Không gian thơ được mở ra tới vô cùng.
- Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ “ tràng giang” – huy cận
Hình ảnh, biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng TGNT trong thơ. Huy Cận là người có khả năng ghi nhận một cách chân thực mà không kém phần ấn tượng những hình tượng trong thực tế khách quan. Đó là những hình tượng rất đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại trở nên độc đáo, riêng biệt.
Hệ thống hình ảnh trong Tràng giang là hình ảnh chân thực của quê hương, đất nước hiện lên với những nét vẽ giản dị, là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này. Nhưng trên hết, hình ảnh thơ trong Tràng giang giàu tính biểu tượng. Có những biểu tượng đã trở thành ước lệ, khuôn sáo từ trong thi ca cổ điển như: dòng sông, con thuyền, gió, bến, bèo, đò, cầu, , mây cao núi bạc, cánh chim, … Có những hình ảnh thơ cùng ý nghĩa biểu tượng những là sự phát hiện táo bạo của chàng Huy, tiêu biểu nhất là hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Tất cả đều gợi ra những ý niệm về con người và cuộc đời hết sức ám ảnh và sâu sắc. Sự đan xen giữa những hình ảnh cũ và mới tạo nên sự hòa hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, cũng như sức hấp dẫn và độ sâu sắc cho bài thơ
Trong bút pháp tạo hình, Huy Cận đặc biệt chú trọng tới việc khai thác những hình ảnh, chi tiết “tả thực”. Như đã nói ở trên, đa phần các hình ảnh thơ đều là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này mà nhà thơ có được.
Hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” sẽ còn được nhiều người nhắc đến như một kiểu mẫu trong bút pháp tạo hình. Bởi lẽ. nó không chỉ hay trong cách mà Huy Cận khai thác một thi liệu quen thuộc, gần gũi từ hiện thực đời sống và phương thức tạo hình của Huy Cận độc đáo vô cùng. “Củi” đã nhỏ bé, khô héo, xơ xác, thế nhưng còn ấn tượng hơn nữa khi Huy Cận liên kết hình ảnh ấy với một loạt những đặc tính đi kèm. Củi đã bé nhỏ nay nó chỉ có “một cành” ít ỏi, rồi lại còn “khô”, cằn cỗi, vậy mà phải lênh đênh, trôi dạt “lạc mấy dòng”. Câu thơ dường như không một chữ thừa. Tất cả cùng liên hợp. cộng hưởng ý nghĩa để hình ảnh “củi” gây ấn tượng mạnh mẽ về sự lẻ loi, đơn độc, bơ vơ và mất phương hướng. Bên cạnh đó, đặt trong bối cánh chung của khổ thơ đầu, hình ảnh củi ở câu bốn tạo ra sự tương phản với cái mênh mông, tít tắp của sông nước, tô đậm sự đơn chiếc, cô lẻ.
- Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ “tràng giang” – huy cận
Nỗi buồn thơ xưa ngả bóng trên trang thơ Huy Cận – một cảm thức về con người vũ trụ, thiên nhân – nhưng không sao làm già nua hồn trẻ chàng Huy. Bởi, “Cái tiếc sớm, cái thương ngửa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.” Cái Tôi trữ tình luôn có khát vọng vươn lên kiếm tìm hơi thở của cuộc sống con người dẫu lạc trong không gian sông nước Tràng giang. Hơn nữa, khi tiếp tục lí giải căn nguyên của nỗi buồn của Huy Cận, ta còn nhận ra nhiều điều hơn nữa về “chiếc hồn linh hồn nhỏ” này.
Men theo diễn trình tuyến tính của ngôn từ bài thơ, ta có thể thấy Huy Cận có ít nhất hai lần đi kiếm tìm dấu vết sự sống của con người giữa không gian Tràng giang cách li, cô lập.
Lần thứ nhất, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào: “tiếng làng xa vãn chơ chiều”. Làng là một không gian quần tụ của một cộng đồng người, cuộc sống của làng xóm tự ao đời nay có bao giờ tĩnh mịch, mà luôn sôi động với những nỗi buồn, niềm vui. “Tiếng làng” thực chất là tiếng nói của con người, của nhiều người. Còn chợ vốn là nơi tấp nập, đông vui, là nơi thể hiện trọn vẹn sức sống, thuần phong mĩ tục của một vùng đất. Cả hai không gian gắn với hai âm thanh mà Huy Cận đang hướng về đều hứa hẹn sẽ khuấy động không gian, xua tan đi cái vắng lặng, hoang vu của không gian thơ. Nhưng “tiếng làng” chỉ ở “xa”, chợ lại đúng vào lúc “chợ chiều” đã vãn. Còn gì buồn hơn một ngày tàn, chiều tàn và chợ tàn! Tiếng thơ nghe băn khoăn, khắc khoải qua đại từ nghi vấn phủ định “đâu.”
Lần thứ hai, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào những “đò”, những “cầu” – vốn là những sự vật mang lại hi vọng xóa mờ khoảng cách địa lí – tâm hồn giữa đôi bờ sông nước, rút ngắn được cách ngăn giữa chủ thể trữ tình với tình đời, tình người. Nhưng mọi thứ đều trống không, chỉ có “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Sắc xanh pha vàng (cùng với màu bạc ở hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”) là những sắc màu hiếm hoi trong bức họa Tràng giang. Hai sắc xanh và vàng ấy không gợi được sự sống, sự trù phú tốt tươi của một vùng đất mà đó là cái màu của héo úa, màu buồn trong ráng chiều. Sự tàn phai, nhợt nhạt ấy kéo nỗi buồn trở về.
Huy Cận hai lần đi kiếm tìm dấu vết, hơi thở sự sống con người. Nhưng, thất bại! Hi vọng ánh lên rồi cũng thành thất vọng, “mới sau câu vui, lại có câu sầu”. Dẫu sao điều đáng ghi nhận ở “hồn buồn” Huy Cận đó là khát khao vượt thoát cảnh buồn và nỗi buồn bản thân để hướng về cõi nhân sinh. Huy Cận nhúng mình vào không gian, lạc bước cô đơn rồi cũng không thể tự mình cứu rồi bằng hi vọng mong manh. Cái Tôi trữ tình đã “lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian” “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo họa trong lòng bọn thi sĩ”. Đó thực sự là điều đáng trân trọng ở một hồn thơ “ảo não bậc nhất”.
15/10/2023
- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ “tràng giang” – huy cận đã gợi cho người đọc một nét buồn man mác mà day dứt
+ Cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ.
+ Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả.
+ Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ‘’ nước ‘’, ‘’ con nước’’, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ ‘’ cồn nhỏ’’, ‘’ bờ xanh’’, ‘’ bãi vàng’’, ‘’ sóng gợn’’..
- Sự khác biệt của bài thơ “ tràng giang” so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ (thực hiện những so sánh cần thiết để chỉ ra được sự khác biệt).
Không gian Tràng giang không chỉ rộng dài, cao sâu tuyệt đối, vô cùng mà qua những bộ mã ngôn từ mà Huy Cận đưa đến độc giả, ta còn nhận ra một Tràng giang hoang vu, vắng lặng cũng vô cùng, tuyệt đối. Tràng giang chính vì đã vững chãi trên ngai vàng Tuyệt đích, thế nên chẳng khác nào một không gian rơi vào quên lãng, cách li hoàn toàn với sự sống của con người. Có thuyền trên sông nhưng “thuyền xuôi mái” chẳng bàn tay người chèo lái, dẫn đưa; có làng nhưng tiếng làng xa ngái như có như không, có chợ nhưng chợ chiều đã tắt tiếng người; rồi không đò, không cầu. Chỉ có riêng một cái Tôi lằng lặng cùng sóng nước, càng khát khao tình đời, tình người, càng cố nương theo ngọn “gió đìu hiu” đi tìm hơi thở cuộc sống thì càng thật vọng, ê chề. Không gian cồn nhỏ “lơ thơ” giữa sóng nước là sự thu nhỏ của Tràng giang giữa biển đời. Một không gian chơi vơi, và như bị quên lãng, không ai nhắc tên, không ai nhớ đến.
Lí giải không gian nghệ thuật của Tràng giang như là tiêu biểu cho khung cảnh thiên nhiên quê hương, đất nước dẫn ta tới vẻ đẹp trù phú của một vùng trên lãnh thổ nước nhà, và giúp ta cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào của Huy Cận đối với cảnh sắc quê hương. Chính tình yêu, niềm tự hào ấy khiến: “Thơ viết về thiên nhiên đất nước là một sở trường, một điểm mạnh của Huy Cận”[16]. Nhưng từ góc nhìn của Mỹ học Thơ mới, không gian sông nước của Tràng giang xứng đáng được coi là biểu hiện của cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao Siêu. Sau này, nghệ thuật là cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao siêu trở thành quan niệm nghệ thuật, quan điểm mỹ học có tính chất tông chỉ của nhóm Xuân Thu và Dạ Đài. Nhưng vì đi quá xa và cực đoan hóa về mặt quan niệm – tư tưởng, vậy nên, nhóm Xuân Thu vô tình đã khiến văn nghệ bị phủ lấp bởi một màn sương bí ảo, li gián hiện thực. Nghệ thuật mà Xuân Thu đề cao thuần túy nảy sinh, tồn tại rồi cũng tự phục vụ (tức tự cung tự cấp) trong cõi vô thức, tâm linh, khó mở rộng được phạm vi ảnh hưởng tới độc giả. Không gian Tràng giang được đón nhận nồng nhiệt đến vậy ắt bởi cái Tuyệt đích, Vô cùng, Cao siêu mà Huy Cận mang đến đêu bắt rễ từ tình yêu quê hương đất nước, từ khát khao giao cảm chân thành trong trái tim của một người nghệ sĩ.
- Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ ‘tràng giang” – huy cận (cần nêu cụ thể)
Trong bài thơ, Huy Cận cứ nhắc mãi về cái ấn tượng “trời rộng”, “sông dài” từ lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đến tận câu thơ cuối khổ thứ hai: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian được mở ra ở tầm thấp lẫn tầm cao: trên là “trời rộng” thênh thang, dưới là “dòng dài” miệt mài chảy trôi, kéo mãi tới tận chân trời. Ấn tượng về sự “rộng” “dài” của không gian được tấu lên từ dòng thơ đầu của khổ thứ nhất: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Sóng trên mặt sông chỉ “gơn”, chỉ lăn tăn, miên man không dứt khiến dòng sông mềm như một dải lụa, uốn nhẹ thân mình trong gió chiều miên man. Từ láy “điệp điệp” trước nhất miêu tả động thái của từng lớp sóng sông. Từng con sóng nhỏ nối đuôi nhau, kéo nhau hết lớp nọ đến lớp kia đưa nhau đến tận cùng khoảng giới hạn của đường chân trời xa xăm. Nói là giới hạn, chứ biết đường chân trời chẳng qua chỉ là cái giới hạn tương đối mà con người tự huyễn hoặc để thỏa mãn nhu cầu chiếm lính vũ trụ của mình. Không gian thơ được mở ra tới vô cùng.
- Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ “ tràng giang” – huy cận
Hình ảnh, biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng TGNT trong thơ. Huy Cận là người có khả năng ghi nhận một cách chân thực mà không kém phần ấn tượng những hình tượng trong thực tế khách quan. Đó là những hình tượng rất đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại trở nên độc đáo, riêng biệt.
Hệ thống hình ảnh trong Tràng giang là hình ảnh chân thực của quê hương, đất nước hiện lên với những nét vẽ giản dị, là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này. Nhưng trên hết, hình ảnh thơ trong Tràng giang giàu tính biểu tượng. Có những biểu tượng đã trở thành ước lệ, khuôn sáo từ trong thi ca cổ điển như: dòng sông, con thuyền, gió, bến, bèo, đò, cầu, , mây cao núi bạc, cánh chim, … Có những hình ảnh thơ cùng ý nghĩa biểu tượng những là sự phát hiện táo bạo của chàng Huy, tiêu biểu nhất là hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Tất cả đều gợi ra những ý niệm về con người và cuộc đời hết sức ám ảnh và sâu sắc. Sự đan xen giữa những hình ảnh cũ và mới tạo nên sự hòa hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, cũng như sức hấp dẫn và độ sâu sắc cho bài thơ
Trong bút pháp tạo hình, Huy Cận đặc biệt chú trọng tới việc khai thác những hình ảnh, chi tiết “tả thực”. Như đã nói ở trên, đa phần các hình ảnh thơ đều là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này mà nhà thơ có được.
Hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” sẽ còn được nhiều người nhắc đến như một kiểu mẫu trong bút pháp tạo hình. Bởi lẽ. nó không chỉ hay trong cách mà Huy Cận khai thác một thi liệu quen thuộc, gần gũi từ hiện thực đời sống và phương thức tạo hình của Huy Cận độc đáo vô cùng. “Củi” đã nhỏ bé, khô héo, xơ xác, thế nhưng còn ấn tượng hơn nữa khi Huy Cận liên kết hình ảnh ấy với một loạt những đặc tính đi kèm. Củi đã bé nhỏ nay nó chỉ có “một cành” ít ỏi, rồi lại còn “khô”, cằn cỗi, vậy mà phải lênh đênh, trôi dạt “lạc mấy dòng”. Câu thơ dường như không một chữ thừa. Tất cả cùng liên hợp. cộng hưởng ý nghĩa để hình ảnh “củi” gây ấn tượng mạnh mẽ về sự lẻ loi, đơn độc, bơ vơ và mất phương hướng. Bên cạnh đó, đặt trong bối cánh chung của khổ thơ đầu, hình ảnh củi ở câu bốn tạo ra sự tương phản với cái mênh mông, tít tắp của sông nước, tô đậm sự đơn chiếc, cô lẻ.
- Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ “tràng giang” – huy cận
Nỗi buồn thơ xưa ngả bóng trên trang thơ Huy Cận – một cảm thức về con người vũ trụ, thiên nhân – nhưng không sao làm già nua hồn trẻ chàng Huy. Bởi, “Cái tiếc sớm, cái thương ngửa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.” Cái Tôi trữ tình luôn có khát vọng vươn lên kiếm tìm hơi thở của cuộc sống con người dẫu lạc trong không gian sông nước Tràng giang. Hơn nữa, khi tiếp tục lí giải căn nguyên của nỗi buồn của Huy Cận, ta còn nhận ra nhiều điều hơn nữa về “chiếc hồn linh hồn nhỏ” này.
Men theo diễn trình tuyến tính của ngôn từ bài thơ, ta có thể thấy Huy Cận có ít nhất hai lần đi kiếm tìm dấu vết sự sống của con người giữa không gian Tràng giang cách li, cô lập.
Lần thứ nhất, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào: “tiếng làng xa vãn chơ chiều”. Làng là một không gian quần tụ của một cộng đồng người, cuộc sống của làng xóm tự ao đời nay có bao giờ tĩnh mịch, mà luôn sôi động với những nỗi buồn, niềm vui. “Tiếng làng” thực chất là tiếng nói của con người, của nhiều người. Còn chợ vốn là nơi tấp nập, đông vui, là nơi thể hiện trọn vẹn sức sống, thuần phong mĩ tục của một vùng đất. Cả hai không gian gắn với hai âm thanh mà Huy Cận đang hướng về đều hứa hẹn sẽ khuấy động không gian, xua tan đi cái vắng lặng, hoang vu của không gian thơ. Nhưng “tiếng làng” chỉ ở “xa”, chợ lại đúng vào lúc “chợ chiều” đã vãn. Còn gì buồn hơn một ngày tàn, chiều tàn và chợ tàn! Tiếng thơ nghe băn khoăn, khắc khoải qua đại từ nghi vấn phủ định “đâu.”
Lần thứ hai, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào những “đò”, những “cầu” – vốn là những sự vật mang lại hi vọng xóa mờ khoảng cách địa lí – tâm hồn giữa đôi bờ sông nước, rút ngắn được cách ngăn giữa chủ thể trữ tình với tình đời, tình người. Nhưng mọi thứ đều trống không, chỉ có “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Sắc xanh pha vàng (cùng với màu bạc ở hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”) là những sắc màu hiếm hoi trong bức họa Tràng giang. Hai sắc xanh và vàng ấy không gợi được sự sống, sự trù phú tốt tươi của một vùng đất mà đó là cái màu của héo úa, màu buồn trong ráng chiều. Sự tàn phai, nhợt nhạt ấy kéo nỗi buồn trở về.
Huy Cận hai lần đi kiếm tìm dấu vết, hơi thở sự sống con người. Nhưng, thất bại! Hi vọng ánh lên rồi cũng thành thất vọng, “mới sau câu vui, lại có câu sầu”. Dẫu sao điều đáng ghi nhận ở “hồn buồn” Huy Cận đó là khát khao vượt thoát cảnh buồn và nỗi buồn bản thân để hướng về cõi nhân sinh. Huy Cận nhúng mình vào không gian, lạc bước cô đơn rồi cũng không thể tự mình cứu rồi bằng hi vọng mong manh. Cái Tôi trữ tình đã “lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian” “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo họa trong lòng bọn thi sĩ”. Đó thực sự là điều đáng trân trọng ở một hồn thơ “ảo não bậc nhất”.
15/10/2023
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
13/06/2025
Top thành viên trả lời