- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ “tràng giang” – huy cận đã gợi cho người đọc. - Sự khác biệt của bài thơ “ tràng giang” – huy cận này so với các bài...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Hạnh Hồng
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

15/10/2023

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận đã gợi cho người đọc là một sự kết hợp giữa sự lãng mạn và sự bi thương. Bài thơ này mang đến cho người đọc một cảm giác hòa quyện giữa vẻ đẹp của sông nước và những nỗi buồn, những tâm tư sâu thẳm của con người. - Sự khác biệt của bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ là việc sử dụng những hình ảnh đặc trưng của sông nước và thiên nhiên để tạo nên một không gian tưởng tượng độc đáo. Bài thơ này sử dụng những so sánh và tương phản để tạo ra sự tương đồng và khác biệt giữa các yếu tố trong bài thơ, từ đó tạo nên một cấu trúc hình ảnh phong phú và sâu sắc. - Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận có thể là việc người đọc có thể hiểu và cảm nhận các hình ảnh và ý nghĩa của chúng theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, hình ảnh của sông Tràng Giang có thể được hiểu là biểu tượng cho cuộc sống, sự trôi chảy của thời gian, hoặc là biểu tượng cho tình yêu và hy vọng. Mỗi người đọc có thể có những khả năng hiểu khác nhau về các yếu tố này dựa trên kinh nghiệm và cảm nhận cá nhân của mình. - Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận là việc khám phá và hiểu rõ hơn về ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Bằng cách đọc và tìm hiểu các cách đọc khác nhau, người đọc có thể khám phá ra những khía cạnh mới, những ý nghĩa ẩn sau các từ ngữ và hình ảnh trong bài thơ. Điều này giúp mở rộng cách nhìn của người đọc về thế giới và con người. - Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận là việc bài thơ này khuyến khích người đọc suy ngẫm và tìm hiểu sâu hơn về cuộc sống và con người. Bài thơ mang đến cho người đọc một cái nhìn mới, một góc nhìn khác về thế giới và con người, từ đó khơi dậy sự tò mò và khám phá về những điều tinh túy và đẹp đẽ trong cuộc sống.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
ThienNgoc

15/10/2023

Câu trả lời uy tín

- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ “tràng giang” – huy cận đã gợi cho người đọc một nét buồn man mác mà day dứt

+ Cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ.

+ Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả.

+ Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ‘’ nước ‘’, ‘’ con nước’’, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ ‘’ cồn nhỏ’’, ‘’ bờ xanh’’, ‘’ bãi vàng’’, ‘’ sóng gợn’’..

- Sự khác biệt của bài thơ “ tràng giang” so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ (thực hiện những so sánh cần thiết để chỉ ra được sự khác biệt).

Không gian Tràng giang không chỉ rộng dài, cao sâu tuyệt đối, vô cùng mà qua những bộ mã ngôn từ mà Huy Cận đưa đến độc giả, ta còn nhận ra một Tràng giang hoang vu, vắng lặng cũng vô cùng, tuyệt đối. Tràng giang chính vì đã vững chãi trên ngai vàng Tuyệt đích, thế nên chẳng khác nào một không gian rơi vào quên lãng, cách li hoàn toàn với sự sống của con người. Có thuyền trên sông nhưng “thuyền xuôi mái” chẳng bàn tay người chèo lái, dẫn đưa; có làng nhưng tiếng làng xa ngái như có như không, có chợ nhưng chợ chiều đã tắt tiếng người; rồi không đò, không cầu. Chỉ có riêng một cái Tôi lằng lặng cùng sóng nước, càng khát khao tình đời, tình người, càng cố nương theo ngọn “gió đìu hiu” đi tìm hơi thở cuộc sống thì càng thật vọng, ê chề. Không gian cồn nhỏ “lơ thơ” giữa sóng nước là sự thu nhỏ của Tràng giang giữa biển đời. Một không gian chơi vơi, và như bị quên lãng, không ai nhắc tên, không ai nhớ đến.

 Lí giải không gian nghệ thuật của Tràng giang như là tiêu biểu cho khung cảnh thiên nhiên quê hương, đất nước dẫn ta tới vẻ đẹp trù phú của một vùng trên lãnh thổ nước nhà, và giúp ta cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào của Huy Cận đối với cảnh sắc quê hương. Chính tình yêu, niềm tự hào ấy khiến: “Thơ viết về thiên nhiên đất nước là một sở trường, một điểm mạnh của Huy Cận”[16]. Nhưng từ góc nhìn của Mỹ học Thơ mới, không gian sông nước của Tràng giang xứng đáng được coi là biểu hiện của cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao Siêu. Sau này, nghệ thuật là cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao siêu trở thành quan niệm nghệ thuật, quan điểm mỹ học có tính chất tông chỉ của nhóm Xuân Thu và Dạ Đài. Nhưng vì đi quá xa và cực đoan hóa về mặt quan niệm – tư tưởng, vậy nên, nhóm Xuân Thu vô tình đã khiến văn nghệ bị phủ lấp bởi một màn sương bí ảo, li gián hiện thực. Nghệ thuật mà Xuân Thu đề cao thuần túy nảy sinh, tồn tại rồi cũng tự phục vụ (tức tự cung tự cấp) trong cõi vô thức, tâm linh, khó mở rộng được phạm vi ảnh hưởng tới độc giả. Không gian Tràng giang được đón nhận nồng nhiệt đến vậy ắt bởi cái Tuyệt đích, Vô cùng, Cao siêu mà Huy Cận mang đến đêu bắt rễ từ tình yêu quê hương đất nước, từ khát khao giao cảm chân thành trong trái tim của một người nghệ sĩ.

- Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ ‘tràng giang” – huy cận (cần nêu cụ thể)

Trong bài thơ, Huy Cận cứ nhắc mãi về cái ấn tượng “trời rộng”, “sông dài” từ lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đến tận câu thơ cuối khổ thứ hai: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian được mở ra ở tầm thấp lẫn tầm cao: trên là “trời rộng” thênh thang, dưới là “dòng dài” miệt mài chảy trôi, kéo mãi tới tận chân trời. Ấn tượng về sự “rộng” “dài” của không gian được tấu lên từ dòng thơ đầu của khổ thứ nhất: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.  Sóng trên mặt sông chỉ “gơn”, chỉ lăn tăn, miên man không dứt khiến dòng sông mềm như một dải lụa, uốn nhẹ thân mình trong gió chiều miên man. Từ láy “điệp điệp” trước nhất miêu tả động thái của từng lớp sóng sông. Từng con sóng nhỏ nối đuôi nhau, kéo nhau hết lớp nọ đến lớp kia đưa nhau đến tận cùng khoảng giới hạn của đường chân trời xa xăm. Nói là giới hạn, chứ biết đường chân trời chẳng qua chỉ là cái giới hạn tương đối mà con người tự huyễn hoặc để thỏa mãn nhu cầu chiếm lính vũ trụ của mình. Không gian thơ được mở ra tới vô cùng.

- Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ “ tràng giang” – huy cận

 Hình ảnh, biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng TGNT trong thơ.  Huy Cận là người có khả năng ghi nhận một cách chân thực mà không kém phần ấn tượng những hình tượng trong thực tế khách quan. Đó là những hình tượng rất đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại trở nên độc đáo, riêng biệt.

 Hệ thống hình ảnh trong Tràng giang là hình ảnh chân thực của quê hương, đất nước hiện lên với những nét vẽ giản dị, là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này. Nhưng trên hết, hình ảnh thơ trong Tràng giang giàu tính biểu tượng. Có những biểu tượng đã trở thành ước lệ, khuôn sáo từ trong thi ca cổ điển như: dòng sông, con thuyền, gió, bến, bèo, đò, cầu, , mây cao núi bạc, cánh chim, … Có những hình ảnh thơ cùng ý nghĩa biểu tượng những là sự phát hiện táo bạo của chàng Huy, tiêu biểu nhất là hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Tất cả đều gợi ra những ý niệm về con người và cuộc đời hết sức ám ảnh và sâu sắc. Sự đan xen giữa những hình ảnh cũ và mới tạo nên sự hòa hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, cũng như sức hấp dẫn và độ sâu sắc cho bài thơ

Trong bút pháp tạo hình, Huy Cận đặc biệt chú trọng tới việc khai thác những hình ảnh, chi tiết “tả thực”. Như đã nói ở trên, đa phần các hình ảnh thơ đều là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này mà nhà thơ có được.

Hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” sẽ còn được nhiều người nhắc đến như một kiểu mẫu trong bút pháp tạo hình. Bởi lẽ. nó không chỉ hay trong cách mà Huy Cận khai thác một thi liệu quen thuộc, gần gũi từ hiện thực đời sống và phương thức tạo hình của Huy Cận độc đáo vô cùng. “Củi” đã nhỏ bé, khô héo, xơ xác, thế nhưng còn ấn tượng hơn nữa khi Huy Cận liên kết hình ảnh ấy với một loạt những đặc tính đi kèm. Củi đã bé nhỏ nay nó chỉ có “một cành” ít ỏi, rồi lại còn “khô”, cằn cỗi, vậy mà phải lênh đênh, trôi dạt “lạc mấy dòng”. Câu thơ dường như không một chữ thừa. Tất cả cùng liên hợp. cộng hưởng ý nghĩa để hình ảnh “củi” gây ấn tượng mạnh mẽ về sự lẻ loi, đơn độc, bơ vơ và mất phương hướng. Bên cạnh đó, đặt trong bối cánh chung của khổ thơ đầu, hình ảnh củi ở câu bốn tạo ra sự tương phản với cái mênh mông, tít tắp của sông nước, tô đậm sự đơn chiếc, cô lẻ.

- Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ “tràng giang” – huy cận

 Nỗi buồn thơ xưa ngả bóng trên trang thơ Huy Cận – một cảm thức về con người vũ trụ, thiên nhân – nhưng không sao làm già nua hồn trẻ chàng Huy. Bởi, “Cái tiếc sớm, cái thương ngửa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.” Cái Tôi trữ tình luôn có khát vọng vươn lên kiếm tìm hơi thở của cuộc sống con người dẫu lạc trong không gian sông nước Tràng giang. Hơn nữa, khi tiếp tục lí giải căn nguyên của nỗi buồn của Huy Cận, ta còn nhận ra nhiều điều hơn nữa về “chiếc hồn linh hồn nhỏ” này.

 Men theo diễn trình tuyến tính của ngôn từ bài thơ, ta có thể thấy Huy Cận có ít nhất hai lần đi kiếm tìm dấu vết sự sống của con người giữa không gian Tràng giang cách li, cô lập.

Lần thứ nhất, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào: “tiếng làng xa vãn chơ chiều”. Làng là một không gian quần tụ của một cộng đồng người, cuộc sống của làng xóm tự ao đời nay có bao giờ tĩnh mịch, mà luôn sôi động với những nỗi buồn, niềm vui. “Tiếng làng” thực chất là tiếng nói của con người, của nhiều người. Còn chợ vốn là nơi tấp nập, đông vui, là nơi thể hiện trọn vẹn sức sống, thuần phong mĩ tục của một vùng đất. Cả hai không gian gắn với hai âm thanh mà Huy Cận đang hướng về đều hứa hẹn sẽ khuấy động không gian, xua tan đi cái vắng lặng, hoang vu của không gian thơ. Nhưng “tiếng làng” chỉ ở “xa”, chợ lại đúng vào lúc “chợ chiều” đã vãn. Còn gì buồn hơn một ngày tàn, chiều tàn và chợ tàn! Tiếng thơ nghe băn khoăn, khắc khoải qua đại từ nghi vấn phủ định “đâu.”

Lần thứ hai, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào những “đò”, những “cầu” – vốn là những sự vật mang lại hi vọng xóa mờ khoảng cách địa lí – tâm hồn giữa đôi bờ sông nước, rút ngắn được cách ngăn giữa chủ thể trữ tình với tình đời, tình người. Nhưng mọi thứ đều trống không, chỉ có “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Sắc xanh pha vàng (cùng với màu bạc ở hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”) là những sắc màu hiếm hoi trong bức họa Tràng giang. Hai sắc xanh và vàng ấy không gợi được sự sống, sự trù phú tốt tươi của một vùng đất mà đó là cái màu của héo úa, màu buồn trong ráng chiều. Sự tàn phai, nhợt nhạt ấy kéo nỗi buồn trở về.

Huy Cận hai lần đi kiếm tìm dấu vết, hơi thở sự sống con người. Nhưng, thất bại! Hi vọng ánh lên rồi cũng thành thất vọng, “mới sau câu vui, lại có câu sầu”. Dẫu sao điều đáng ghi nhận ở “hồn buồn” Huy Cận đó là khát khao vượt thoát cảnh buồn và nỗi buồn bản thân để hướng về cõi nhân sinh. Huy Cận nhúng mình vào không gian, lạc bước cô đơn rồi cũng không thể tự mình cứu rồi bằng hi vọng mong manh. Cái Tôi trữ tình đã “lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian” “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo họa trong lòng bọn thi sĩ”. Đó thực sự là điều đáng trân trọng ở một hồn thơ “ảo não bậc nhất”.

 

 

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS
avatar
level icon

- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ “tràng giang” – huy cận đã gợi cho người đọc một nét buồn man mác mà day dứt

+ Cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ.

+ Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả.

+ Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ‘’ nước ‘’, ‘’ con nước’’, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ ‘’ cồn nhỏ’’, ‘’ bờ xanh’’, ‘’ bãi vàng’’, ‘’ sóng gợn’’..

- Sự khác biệt của bài thơ “ tràng giang” so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ (thực hiện những so sánh cần thiết để chỉ ra được sự khác biệt).

Không gian Tràng giang không chỉ rộng dài, cao sâu tuyệt đối, vô cùng mà qua những bộ mã ngôn từ mà Huy Cận đưa đến độc giả, ta còn nhận ra một Tràng giang hoang vu, vắng lặng cũng vô cùng, tuyệt đối. Tràng giang chính vì đã vững chãi trên ngai vàng Tuyệt đích, thế nên chẳng khác nào một không gian rơi vào quên lãng, cách li hoàn toàn với sự sống của con người. Có thuyền trên sông nhưng “thuyền xuôi mái” chẳng bàn tay người chèo lái, dẫn đưa; có làng nhưng tiếng làng xa ngái như có như không, có chợ nhưng chợ chiều đã tắt tiếng người; rồi không đò, không cầu. Chỉ có riêng một cái Tôi lằng lặng cùng sóng nước, càng khát khao tình đời, tình người, càng cố nương theo ngọn “gió đìu hiu” đi tìm hơi thở cuộc sống thì càng thật vọng, ê chề. Không gian cồn nhỏ “lơ thơ” giữa sóng nước là sự thu nhỏ của Tràng giang giữa biển đời. Một không gian chơi vơi, và như bị quên lãng, không ai nhắc tên, không ai nhớ đến.

 Lí giải không gian nghệ thuật của Tràng giang như là tiêu biểu cho khung cảnh thiên nhiên quê hương, đất nước dẫn ta tới vẻ đẹp trù phú của một vùng trên lãnh thổ nước nhà, và giúp ta cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào của Huy Cận đối với cảnh sắc quê hương. Chính tình yêu, niềm tự hào ấy khiến: “Thơ viết về thiên nhiên đất nước là một sở trường, một điểm mạnh của Huy Cận”[16]. Nhưng từ góc nhìn của Mỹ học Thơ mới, không gian sông nước của Tràng giang xứng đáng được coi là biểu hiện của cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao Siêu. Sau này, nghệ thuật là cái Tuyệt đích, cái Vô cùng, cái Cao siêu trở thành quan niệm nghệ thuật, quan điểm mỹ học có tính chất tông chỉ của nhóm Xuân Thu và Dạ Đài. Nhưng vì đi quá xa và cực đoan hóa về mặt quan niệm – tư tưởng, vậy nên, nhóm Xuân Thu vô tình đã khiến văn nghệ bị phủ lấp bởi một màn sương bí ảo, li gián hiện thực. Nghệ thuật mà Xuân Thu đề cao thuần túy nảy sinh, tồn tại rồi cũng tự phục vụ (tức tự cung tự cấp) trong cõi vô thức, tâm linh, khó mở rộng được phạm vi ảnh hưởng tới độc giả. Không gian Tràng giang được đón nhận nồng nhiệt đến vậy ắt bởi cái Tuyệt đích, Vô cùng, Cao siêu mà Huy Cận mang đến đêu bắt rễ từ tình yêu quê hương đất nước, từ khát khao giao cảm chân thành trong trái tim của một người nghệ sĩ.

- Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ ‘tràng giang” – huy cận (cần nêu cụ thể)

Trong bài thơ, Huy Cận cứ nhắc mãi về cái ấn tượng “trời rộng”, “sông dài” từ lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đến tận câu thơ cuối khổ thứ hai: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian được mở ra ở tầm thấp lẫn tầm cao: trên là “trời rộng” thênh thang, dưới là “dòng dài” miệt mài chảy trôi, kéo mãi tới tận chân trời. Ấn tượng về sự “rộng” “dài” của không gian được tấu lên từ dòng thơ đầu của khổ thứ nhất: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.  Sóng trên mặt sông chỉ “gơn”, chỉ lăn tăn, miên man không dứt khiến dòng sông mềm như một dải lụa, uốn nhẹ thân mình trong gió chiều miên man. Từ láy “điệp điệp” trước nhất miêu tả động thái của từng lớp sóng sông. Từng con sóng nhỏ nối đuôi nhau, kéo nhau hết lớp nọ đến lớp kia đưa nhau đến tận cùng khoảng giới hạn của đường chân trời xa xăm. Nói là giới hạn, chứ biết đường chân trời chẳng qua chỉ là cái giới hạn tương đối mà con người tự huyễn hoặc để thỏa mãn nhu cầu chiếm lính vũ trụ của mình. Không gian thơ được mở ra tới vô cùng.

- Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ “ tràng giang” – huy cận

 Hình ảnh, biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng TGNT trong thơ.  Huy Cận là người có khả năng ghi nhận một cách chân thực mà không kém phần ấn tượng những hình tượng trong thực tế khách quan. Đó là những hình tượng rất đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại trở nên độc đáo, riêng biệt.

 Hệ thống hình ảnh trong Tràng giang là hình ảnh chân thực của quê hương, đất nước hiện lên với những nét vẽ giản dị, là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này. Nhưng trên hết, hình ảnh thơ trong Tràng giang giàu tính biểu tượng. Có những biểu tượng đã trở thành ước lệ, khuôn sáo từ trong thi ca cổ điển như: dòng sông, con thuyền, gió, bến, bèo, đò, cầu, , mây cao núi bạc, cánh chim, … Có những hình ảnh thơ cùng ý nghĩa biểu tượng những là sự phát hiện táo bạo của chàng Huy, tiêu biểu nhất là hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Tất cả đều gợi ra những ý niệm về con người và cuộc đời hết sức ám ảnh và sâu sắc. Sự đan xen giữa những hình ảnh cũ và mới tạo nên sự hòa hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, cũng như sức hấp dẫn và độ sâu sắc cho bài thơ

Trong bút pháp tạo hình, Huy Cận đặc biệt chú trọng tới việc khai thác những hình ảnh, chi tiết “tả thực”. Như đã nói ở trên, đa phần các hình ảnh thơ đều là sản phầm của sự quan sát kĩ lưỡng, tinh nhạy hòa trong tình yêu con người, niềm tự hào thầm kín mà mãnh liệt với mảnh đất này mà nhà thơ có được.

Hình ảnh: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” sẽ còn được nhiều người nhắc đến như một kiểu mẫu trong bút pháp tạo hình. Bởi lẽ. nó không chỉ hay trong cách mà Huy Cận khai thác một thi liệu quen thuộc, gần gũi từ hiện thực đời sống và phương thức tạo hình của Huy Cận độc đáo vô cùng. “Củi” đã nhỏ bé, khô héo, xơ xác, thế nhưng còn ấn tượng hơn nữa khi Huy Cận liên kết hình ảnh ấy với một loạt những đặc tính đi kèm. Củi đã bé nhỏ nay nó chỉ có “một cành” ít ỏi, rồi lại còn “khô”, cằn cỗi, vậy mà phải lênh đênh, trôi dạt “lạc mấy dòng”. Câu thơ dường như không một chữ thừa. Tất cả cùng liên hợp. cộng hưởng ý nghĩa để hình ảnh “củi” gây ấn tượng mạnh mẽ về sự lẻ loi, đơn độc, bơ vơ và mất phương hướng. Bên cạnh đó, đặt trong bối cánh chung của khổ thơ đầu, hình ảnh củi ở câu bốn tạo ra sự tương phản với cái mênh mông, tít tắp của sông nước, tô đậm sự đơn chiếc, cô lẻ.

- Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ “tràng giang” – huy cận

 Nỗi buồn thơ xưa ngả bóng trên trang thơ Huy Cận – một cảm thức về con người vũ trụ, thiên nhân – nhưng không sao làm già nua hồn trẻ chàng Huy. Bởi, “Cái tiếc sớm, cái thương ngửa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.” Cái Tôi trữ tình luôn có khát vọng vươn lên kiếm tìm hơi thở của cuộc sống con người dẫu lạc trong không gian sông nước Tràng giang. Hơn nữa, khi tiếp tục lí giải căn nguyên của nỗi buồn của Huy Cận, ta còn nhận ra nhiều điều hơn nữa về “chiếc hồn linh hồn nhỏ” này.

 Men theo diễn trình tuyến tính của ngôn từ bài thơ, ta có thể thấy Huy Cận có ít nhất hai lần đi kiếm tìm dấu vết sự sống của con người giữa không gian Tràng giang cách li, cô lập.

Lần thứ nhất, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào: “tiếng làng xa vãn chơ chiều”. Làng là một không gian quần tụ của một cộng đồng người, cuộc sống của làng xóm tự ao đời nay có bao giờ tĩnh mịch, mà luôn sôi động với những nỗi buồn, niềm vui. “Tiếng làng” thực chất là tiếng nói của con người, của nhiều người. Còn chợ vốn là nơi tấp nập, đông vui, là nơi thể hiện trọn vẹn sức sống, thuần phong mĩ tục của một vùng đất. Cả hai không gian gắn với hai âm thanh mà Huy Cận đang hướng về đều hứa hẹn sẽ khuấy động không gian, xua tan đi cái vắng lặng, hoang vu của không gian thơ. Nhưng “tiếng làng” chỉ ở “xa”, chợ lại đúng vào lúc “chợ chiều” đã vãn. Còn gì buồn hơn một ngày tàn, chiều tàn và chợ tàn! Tiếng thơ nghe băn khoăn, khắc khoải qua đại từ nghi vấn phủ định “đâu.”

Lần thứ hai, ông gửi niềm hi vọng cứu cánh vào những “đò”, những “cầu” – vốn là những sự vật mang lại hi vọng xóa mờ khoảng cách địa lí – tâm hồn giữa đôi bờ sông nước, rút ngắn được cách ngăn giữa chủ thể trữ tình với tình đời, tình người. Nhưng mọi thứ đều trống không, chỉ có “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Sắc xanh pha vàng (cùng với màu bạc ở hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”) là những sắc màu hiếm hoi trong bức họa Tràng giang. Hai sắc xanh và vàng ấy không gợi được sự sống, sự trù phú tốt tươi của một vùng đất mà đó là cái màu của héo úa, màu buồn trong ráng chiều. Sự tàn phai, nhợt nhạt ấy kéo nỗi buồn trở về.

Huy Cận hai lần đi kiếm tìm dấu vết, hơi thở sự sống con người. Nhưng, thất bại! Hi vọng ánh lên rồi cũng thành thất vọng, “mới sau câu vui, lại có câu sầu”. Dẫu sao điều đáng ghi nhận ở “hồn buồn” Huy Cận đó là khát khao vượt thoát cảnh buồn và nỗi buồn bản thân để hướng về cõi nhân sinh. Huy Cận nhúng mình vào không gian, lạc bước cô đơn rồi cũng không thể tự mình cứu rồi bằng hi vọng mong manh. Cái Tôi trữ tình đã “lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian” “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo họa trong lòng bọn thi sĩ”. Đó thực sự là điều đáng trân trọng ở một hồn thơ “ảo não bậc nhất”.

 

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
3.0/5 (2 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Sheep

15/10/2023

Bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cộn gợi lên cho người đọc một cảm giác chung là sự lạ lẫm trong cách diễn tả và hình ảnh. Nó khác biệt so với các bài thơ khác trong việc xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ. Đặc điểm quan trọng của bài thơ này là sự đa nghĩa và khả năng hiểu khác nhau đối với các yếu tố và hình ảnh có trong bài thơ. Một số yếu tố và hình ảnh trong bài thơ có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào góc nhìn và trải nghiệm của người đọc. Bằng cách đọc, thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau, chúng ta có thể làm sáng tỏ một số khía cạnh và ý nghĩa của bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận. Qua việc khám phá và xem xét bài thơ này, nó gợi mở một cách nhìn mới về thế giới và con người. Nó có thể mở ra các ý tưởng sáng tạo và cách tiếp cận khác nhau đối với thế giới và những gì xung quanh chúng ta.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi