29/10/2023
29/10/2023
Khi nhắc đến Tố Hữu, ta nghĩ ngay đến bài thơ cách mạng “Việt Bắc” và biệt danh “Cánh chim đầu đàn”. Tố Hữu được coi là hồn thơ của dân tộc, với phong cách thơ trữ tình và chính trị đã khẳng định vị thế của ông trên thi đàn Việt Nam. Ông là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ, và được so sánh với nhà thơ Sóng Hồng trong việc sử dụng bút làm đòn xoay chế độ, và văn chương của ông có sức công phá cường quyền. Theo lời Hồ Chí Minh, một nhà thơ cũng phải biết xung phong và có tinh thần quyết chiến. Khi Việt Bắc được giải phóng vào tháng 7 năm 1954, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để kỷ niệm sự kiện này. Bài thơ này không chỉ là một bản tình ca mà còn là một bản hùng ca mô tả bức tranh ra quân hào hùng của quân đội trong Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu mô tả những đường đi của quân đội Việt Bắc đầy hào hùng, với khát khao được làm chủ đất nước của mình. Tác giả sử dụng các từ láy như “đêm đêm” và “rầm rập”, kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp so sánh, tái hiện lại âm hưởng hào hùng của cả một dân tộc hành quân ra trận.
Câu thơ trên miêu tả âm thanh vang vọng của đội quân hào kiệt, trong khi đó câu thơ dưới đặc biệt chú trọng vào việc mô tả hình ảnh. Tác giả sử dụng nghệ thuật tượng trưng để miêu tả quê hương đang chờ đợi sự giải phóng. Cây cối trơ trụi và bóng tối u ám là hình ảnh của một quê hương bị áp bức, bị chinh phục. Tuy nhiên, qua sự hy sinh của các anh hùng, quê hương sẽ được giải phóng và thắp sáng lên trong ánh nắng mới.
Bằng những hình ảnh đó, Tố Hữu thể hiện sự kiên cường, tinh thần quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập, tự do. Với những thủ pháp nghệ thuật tinh tế, ông đã khắc họa một bức tranh đẹp về tình yêu quê hương và sự hy sinh của những người con ghi danh vào lịch sử dân tộc.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
“Điệp điệp”, “trùng trùng” vốn dĩ là những từ láy để mô tả núi hoặc sóng, nhưng ở đây Tố Hữu đã khéo léo miêu tả vẻ đẹp của người dân Việt Nam hành quân ra trận, người người lớp lớp đông đảo như sóng cuộn điệp điệp trùng trùng. Hình ảnh này đã từng bước vào trang văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, làn sóng ấy lại vô cùng sôi nổi, nó lướt qua mọi khó khăn thử thách, nó nhấn chìm cả bọn bán nước và bè lũ cướp nước”.
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Nếu hiểu theo nghĩa thực “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu ta hiểu theo nghĩa ẩn dụ, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghệ thuật đảo ngữ “đỏ đuốc” phần nào gợi được sức mạng và sự đông đảo lực lượng hậu phương vững chắc của anh bộ đội, là những đoàn dân công quang gánh, xe thồ, ngày đêm tải đạn ra tiền tuyến. Và cũng chỉ có trong những bảo tàng lịch sử Việt Nam ta mới nhận thấy, có chiếc xe đạp mà có thể chở được 2 3 tạ đạn lên chiến trường thật phi thường. Thơ ca của nhà thơ Tố Hữu rất đồng điệu với thơ ca của Bác Hồ, khi mà hướng bắt đầu luôn luôn là hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng và ở đó là nghệ thuật nói quá và phóng đại làm cho vẻ đẹp của những con người Việt Nam bước ta từ trang sử vẻ vang của dân tộc.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Trong bức tranh thơ này, chúng ta thấy rõ sự tương phản giữa một bên là “thăm thẳm sương dày” và một bên là “đèn pha bật sáng”. Hình ảnh của ngọn đèn pha bật sáng như một biểu tượng cho sự phá vỡ của bóng tối và khó khăn trong những ngày đầu kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Đó là những ngày mà chúng ta chỉ có vũ khí là giáo mác thô sơ, nhưng quân ta đã vươn lên với một sức mạnh kinh ngạc và thế tấn công dễ như chẻ tre. Điều đó đã đánh tan đi lớp sương dày của khó khăn, khi chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến và những pháo binh ra mặt trận. Và bình minh huy hoàng của kháng chiến đã vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên, sẵn sàng đánh đổi tất cả để giành lại chủ quyền và tự do cho quê hương.
Tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì 4 câu thơ dưới là vẻ đẹp của khúc ca ăn mừng chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Điệp khúc “vui” được lặp đi lặp lại 4 lần, phản ánh tiếng reo vui đầy phấn khởi của hàng triệu trái tim Việt Nam khi cùng chung tay đánh bại giặc ngoại xâm. Tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kê, nhắc đến những chiến công vang dội như “Hòa Bình”, “Tây Bắc”, “Điện Biên”,… để khẳng định rằng chiến thắng sau còn hơn cả chiến thắng trước đó. Từ đó, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của Việt Bắc trong tác phẩm của Tố Hữu. “Việt Bắc” không chỉ là một bản tình ca mà còn là một hùng ca bi hùng bi tráng về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.
Tiếp đó ta thấy:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Bài thơ “Từ ấy” là một tác phẩm văn chương đầy cảm hứng về lý tưởng cách mạng và ý chí chiến đấu của con người. Bài thơ được chia thành ba khổ thơ, mỗi khổ thơ đều mang đến một vẻ đẹp đặc trưng riêng.
Khổ thơ đầu tiên thể hiện niềm vui của tác giả khi bước vào cuộc sống cách mạng. Tác giả ví tâm hồn của mình như một khu vườn đầy hoa lá, nơi mà mặt trời chân lí soi sáng đến mức đánh bật bóng tối, giống như ánh sáng của triết học Mác Lênin, là Đảng chỉ lối cho con đường tương lai. Tác giả mê hoặc bởi tiếng chim hót trong khu vườn, nói lên niềm vui và hạnh phúc của con người khi sống và hưởng thụ cuộc sống trong một môi trường xã hội cách mạng.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ thể hiện sự ý thức trách nhiệm của những chiến sĩ cách mạng. Họ phải gần gũi với quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần đoàn kết dân tộc và giúp đỡ đồng bào trong mọi tình huống. Bài thơ liên tục sử dụng các từ “là anh”, “là em”, “là con”, đưa ra thông điệp rằng tất cả đồng bào, đồng chí cùng là một gia đình, tất cả đều chung một máu, chung một mục đích. Từ đó, sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Từ ấy” đề cập đến nhiệm vụ quan trọng nhất của những chiến sĩ cách mạng, đó là phải xây dựng và thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Điều này đòi hỏi họ phải dành nhiều thời gian để nghe và cảm nhận nỗi đau và khổ đau của người dân, và từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để giúp đỡ họ. Tác giả cho rằng đây là vẻ đẹp thực sự của cuộc sống cách mạng.
Trong văn chương, chúng ta thấy rằng phong cách viết của một nhà văn sẽ thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ví dụ như nhà thơ Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 thường viết về con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu, sau đó thì chuyển sang viết về cuộc sống và trải nghiệm của bản thân với những triết lý sâu sắc. Tương tự, Nguyễn Tuân trước và sau năm 1945 cũng có sự khác biệt rõ rệt trong phong cách viết. Ví dụ như tác phẩm “Chữ người tử tù” khác hoàn toàn với “Người lái đò sông Đà” về cả nội dung và phong cách. Tóm lại, trong văn chương, phong cách viết của một tác giả sẽ thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh và thời đại.
Bài thơ “Việt Bắc” và “Từ ấy” của Tố Hữu đều có điểm chung là phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị” được thể hiện một cách nhất quán. Với vai trò là nhà thơ cách mạng, ông luôn ý thức được sức mạnh của ngòi bút và sử dụng nó như một vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Tác phẩm của ông không chỉ là những tác phẩm văn chương, mà còn là cuốn nhật kí về lịch sử Việt Nam. Điểm khác biệt giữa hai bài thơ này nằm ở nội dung. “Từ ấy” viết về niềm vui của tác giả khi đến với ánh sáng lí tưởng của cách mạng, trong khi “Việt Bắc” miêu tả những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Thể thơ của “Từ ấy” là lục bát, trong khi “Việt Bắc” không sử dụng thể thơ này. Tố hữu thật xứng đáng với danh xưng nhà thư kí trung thành của thời đại và tác phẩm của ông là những tấm gương xuyên suốt trên quãng đường Cách mạng Dân tộc. Qua hai tác phẩm có thể thấy được "Thơ là tấm gương của tâm hồn" của Tố Hữu.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
13 phút trước
3 giờ trước
Top thành viên trả lời