31/12/2023
31/12/2023
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có những đóng góp đa dạng cho nền văn học dân tộc đặc biệt về mảng thơ nôm, thơ trào phúng. Bài thơ “ông phỗng đá” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ trào phúng của nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ. Bài thơ là lời tự trào của tác giả khi đứng trước hình ảnh ông phỗng đã trên hòn non bộ:
“Ông đứng đó làm chi hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng
“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?”
Nguyễn Khuyến ra làm quan vào thế kỷ XIX, khi đất nước hỗn loạn, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, triều đình nhà Nguyễn dần lụi tàn. Chính vì thế Nguyễn Khuyến đã có những thay đổi mới mẻ trong tư tưởng làm thơ, ông viết nhiều bài thơ trào phúng để nói lên hiện thực xã hội. Nhan đề “ông phỗng đá” gợi ra cho ta nhiều suy nghĩ. Đây là bài thơ trào phúng xuất hiện hình ảnh ông phỗng đá- hình ảnh tượng đặc trưng trong văn học Việt Nam. Nguyễn Khuyến đã xây dựng hình ảnh ông phỗng đứng cô đơn, lẻ loi vững chắc trên hòn non bộ ở giữa hồ. Hai câu thơ đầu là câu hỏi tu từ khắc họa hình ảnh ông phỗng đá:
“Ông đứng đó làm chi hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng”
Câu thơ mở đầu tác phẩm được viết dưới dạng câu hỏi tu từ gợi nhiều suy nghĩ. Đây là câu hỏi không có lời đáp, hỏi để thể hiện thái độ băn khoăn với ẩn ý mỉa mai xã hội. Thán từ “hỡi” kết hợp với đại từ “ông” nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của câu hỏi, từ đó giúp câu thơ tăng tính thuyết phục, tạo nên tính nhạc cho tác phẩm. “Ông đứng” là trạng thái đứng yên, vững chắc không gì lay chuyển được. “Ông đứng” kết hợp với từ láy “trơ trơ” tái hiện rõ hình ảnh ông phỗng đứng trơ không gì thay đổi được trước mọi tác động của ngoại cảnh. Nguyễn Khuyến đã so sánh “trơ trơ như đá, vững như đồng” làm hiện lên với hình ảnh rất kiên định, không gì lay chuyển được. Hai câu thơ đầu được Nguyễn Khuyến miêu tả chân dung ông phỗng đá. Từ đó ẩn ý muốn dùng những lời mỉa mai châm biếm sâu cay đến xã hội. Phê phán những thói xấu của bọn quan lại đứng nhìn nước rơi vào cảnh lầm than, nhân dân cực khổ mà không biết hành động. Chúng đã bị những hào nhoáng trước mắt che lấp, điển hình cho bộ mặt xấu xa của xã hội. Nguyễn Khuyến đã làm rõ chân dung ông phỗng đã qua hai câu thơ cuối:
“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?”
Câu hỏi tu từ tiếp tục được sử dụng gợi sự tò mò muốn biết ông phỗng đứng vững như vậy để bảo vệ cho điều gì. Ẩn sâu sau câu hỏi đó là lời trách móc với ẩn ý muốn nói đến những vị quan trong xã hội, những người thờ ơ trước đất nước. Họ là những người sống trong xã hội khủng hoảng, triều đình suy sụp, nhân dân cơ cực lầm than. Thế nhưng, những con người ấy vẫn trơ mắt đứng nhìn, không có một động thái nào đứng ra để bảo vệ đất nước.
Kết thúc bài thơ cũng bằng một câu hỏi tu từ “nước non vơi đầy có biết không?”. Câu hỏi ấy gửi ra trong ta bao suy nghĩ. Người đọc có thể hiểu theo hai nghĩa sau: “Nước non vơi đầy” ý muốn chỉ một đất nước thật đẹp, giàu có, thịnh vượng kết hợp với khung cảnh tráng lệ. Thế nhưng dường như sống trong hoàn cảnh xã hội như thế, ý thơ Nguyễn Khuyến lại mang một nghĩa khác. “Nước non vơi đầy” còn nói đến thực trạng xã hội nhiều biến động, triều đình nhà Nguyễn suy thoái, đất nước dần lụi tàn, thực dân Pháp xâm lược, quay lại bù nhìn. Hai câu thơ cuối là hai câu hỏi tu từ, nhịp điệu dồn dập, liên tiếp mở ra bao suy tư mới. Đó là những thực trạng xã hội, cho thấy sự nhu nhược của triều đình. Cũng là những lời trách móc chính mình không làm được gì cho đất nước.
Nguyễn Khuyến đã thành công khi sử dụng nghệ thuật trào phúng vào trong những dòng thơ. Nhằm đưa đến cho người đọc những ý nghĩ đầy mỉa mai, giễu cợt chua cay thực trạng xã hội. Với việc sử dụng ngôn từ và hình ảnh gần gũi, chân thực kết hợp với các biện pháp tu từ được sử dụng linh hoạt, “ông phỗng đá” đã trở thành tác phẩm đỉnh cao cho phong cách sáng tác của nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
Sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, cùng sự suy sụp của triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp đang lộng hành trên đất Việt, chúng bày ra nhiều trò lố lăng. Bài thơ là lời cảnh tỉnh về lòng yêu nước, khơi dậy ý thức bảo vệ Tổ Quốc.
05/09/2025
Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình” thì Nguyễn Khuyến lại như là một “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Thơ của ông nói lên tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình, bạn bè, phản ánh cuộc sống thuần khổ của nông dân, châm biếm đả kích tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước. Trong số tác phẩm đặc sắc đó, không thể không kể đến bài thơ “Ông phỗng đá” – đỉnh cao chói sáng trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là lời tự trào của tác giả khi đứng trước hình ảnh ông phỗng đá trên hòn non bộ.
Bài thơ trào phúng ngay từ nhan đề gợi hình ảnh “ông phỗng” - hình tượng đá thường được trưng trong văn hóa Việt Nam. Trong buổi dạy học ở nhà quan kinh lược Hoàng Cao khải, nhân thấy đôi phỗng đá ngoài vườn, thi sĩ Nguyễn Khuyến bèn tức cảnh làm bài thơ Ông phỗng đá.
Hình ảnh phỗng đá là hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam, cũng như rất quen thuộc trong thơ ca. Với Nguyễn Dư là “thằng phỗng, ông phỗng”, còn đối với Nguyễn Khuyến - người để ý tới phỗng nhiều nhất lại là hình ảnh ông phỗng đá đang đứng cô đơn, lẻ bóng trên hòn non bộ ở giữa hồ. Hai câu thơ đầu là câu hỏi tu từ khắc họa hình ảnh ông phỗng đá:
Ông đứng đó làm chi hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng
Câu hỏi tu từ ngay khi vừa mở đầu vừa như là một sự băn khoăn, vừa như là sự mỉa mai và ngụ ý châm biếm của tác giả. Câu thơ cất lên phải chăng như một sự thăm dò công việc của ông phỗng đá. Thán từ “ hỡi” kết hợp với đại từ “ông” làm cho câu thơ mang giá trị biểu cảm cao, bộc lộ cảm xúc dâng trào. Tác giả hỏi ông phỗng đá đứng đó làm gì, dường như cũng có thêm sự mỉa mai, bởi vì chính bản thân ông phỗng đá cũng đâu biết mình đang làm công việc gì. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ thêm bức chân dung về ông phỗng đá:
“Trơ trơ như đá, vững như đồng”
Từ láy “trơ trơ”, kết hợp với hình ảnh so sánh “ như đá”, “vững như đồng” càng làm rõ nét thêm hình ảnh của ông phỗng đá. Đó phải chăng là hình ảnh phỗng đá đứng bất động mặc kệ sự biến động của trời đất, hình ảnh ông phỗng đá trơ trơ không quan tâm tới xung quanh, lúc nào cũng vậy, cũng đứng đó như một kẻ bù nhìn? Hay là sự mỉa mai, phê phán của nhà thơ về những thói xấu ở đời, thói xấu của bọn quan lại không biết xót thương tới những cảnh lầm than của người dân trong cái xã hội cùng cực đó, chỉ biết như “ông phỗng đá” kệ mặc cuộc sống của những con người cùng cực ấy. Những dòng thơ trào phúng mang giọng điệu phê phán của Nguyễn Khuyến không chỉ xuất hiện trong những câu thơ trên, mà nó như một nỗi ám ảnh, day dứt, khiến nhà thơ trăn trở mãi, và nó còn xuất hiện trong bài “Lời vợ anh phường chèo”:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Hai câu thơ tiếp theo mở ra giúp ta hiểu rõ hơn về công việc, cũng như hình ảnh ông phỗng, đồng thời hiểu rõ được dụng ý mỉa mai sâu cay tầng lớp thống trị và tấm lòng nhà thơ:
“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?
Cả bài thơ có bốn dòng thơ, nhưng lại tới ba câu là câu hỏi tu từ. Ba câu hỏi dồn dập nhau với nhiều ý tưởng: Ông phỗng đá đứng đó làm chi vậy? Trước mặt ông phỗng đá là giang sơn gấm vóc của Tổ tiên nhà, có phải muốn canh chừng, giữ gìn cho ai đó chăng? Và cái mảnh giang sơn đó giờ như nào? Hắn có biết chăng? Các câu hỏi dồn dập nhau, ý chừng cụ Tam Nguyên Yên Đổ như muốn khuynh đáo pho tượng, bắt buộc ông phỗng đá phải đáp lại, phải thốt lên thành lời..Nhưng ông phỗng đá sao trả lời được..Những câu hỏi ấy của nhà thơ như là lời tự trào, như một tiếng hú, tiếng kêu thất thanh trong nhân loại.Câu thơ “Đêm ngày giữ gìn cho ai đó?”, ý hỏi ông phỗng đá đang ngày đêm gìn giữ điều gì, có phải đang níu kéo cái đạo lý cương thường một thời của Nho giáo đang mất dần vị thế độc tôn? Câu thơ cuối cùng như là một sự trách móc khéo léo mà thâm thúy của nhà thơ:
“Non nước đầy vơi có biết không?”
Hình ảnh “non nước đầy vơi” gợi mở ra nhiều ý nghĩa. Non nước đầy vơi ấy không chỉ là hình ảnh giang sơn, núi đầy vơi như nào, khung cảnh ra sao. Mà “non nước đầy vơi” ở đây chính là cái thực trạng xã hội khi đó Nguyễn Khuyến sống. Đó là cái xã hội phong kiến đầy biến động: Thực dân Pháp đang rêu rao xâm lược, triều đình thì bạc nhược, quan lại thì bù nhìn, các phong trào đấu tranh yêu nước thì dập tắt. Với việc sử dụng liên tiếp hai câu hỏi tu tiếp ở đây không chỉ thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả trước sự vô cảm, vô trách nhiệm của đám quan lại, triều đình phong kiến trước an nguy của đất nước, sự suy vọng của dân tộc. Mà phải chăng đó là sự tự trách mình của chính nhà thơ? Nguyễn Khuyến thấy mình như một kẻ thừa thãi trong guồng máy thống trị phong kiến. Ông trách mình vô dụng, trách bản thân cũng như một ông phỗng, cũng chỉ biết đứng nhìn chứ không giúp gì được cho dân, cho nước. Giọng điệu thơ của tác giả nhẹ nhàng, mà thâm thúy khác hẳn với tiếng trào phúng đầy suồng sã, chua cay, dữ dội của Tú Xương trong bài “Ông cử Nhu”:
“Sơ khảo trường Nam bác cử Nhu
Thật là vừa dốt mà lại vừa ngu”
Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm không chỉ là một khám phá về nội dung, mà còn là phát minh về hình thức”. Quả đúng như vậy, bài thơ “Ông phỗng đá” không chỉ hấp dẫn người đọc bởi nội dung đặc sắc, mà còn bởi nghệ thuật vô cùng đọc đáo của Nguyễn Khuyến trong thơ trào phúng. Lối trào phúng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ này là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của tác giả không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau hình ảnh và từ ngữ. Không những thế, tác giả còn sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hết sức tài tình, ngôn ngữ, hình ảnh gần gũi đối với quê hương. Các từ láy, biện pháp tu từ so sánh được sử dụng linh hoạt trong bốn câu thơ khiến cho bài thơ trở nên đặc sắc. Đặc biệt, là cách sử dụng câu hỏi tu từ ba trên bốn dòng thơ, hỏi mà không có người trả lời, đã khơi dậy trong lòng đọc giả biết bao suy tư, băn khoăn về xã hội một thời. Tất cả những biện pháp nghệ thuật ấy đã giúp phần làm nổi bật hình ảnh ông phỗng đá giữa hòn núi non bộ, đồng thời còn là sự phê phán của tác giả giữa thực trạng xã hội đó, cái xã hội mà ở đó, quan lại triều đình thờ ơ trước sự sống còn của những người dân thấp cổ bé họng.
Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt ấy. Trong “Ông phỗng đá” nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hình ảnh triều đình, quan lại, bạc nhược thờ ơ trước những nỗi đau khốn cùng của người dân. Để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng ấy, chính Nguyễn Khuyến cũng là người trong cuộc, ông cũng là người làm quan một thời, là người trơ trơ như ông phỗng đá không giúp ích gì được cho dân, cho nước. Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến cuộc đối thoại của nhà thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.
Tuy chỉ là một bài thơ ngắn, thế nhưng tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về nghệ thuật thơ trào phúng, mà còn khiến tả cảm nhận rõ hơn thực trạng xã hội phong kiến với những “ông phỗng” thờ ơ trước vận mệnh của nhân dân. Chính vì thế, lớp bụi thời gian có thể phủ nhòa đi mọi thứ, nhưng bài thơ này cùng giá trị châm biếm, mỉa mai sâu cay thì vẫn còn mãi như minh chứng cho tấm lòng lo lắng cho “non nước” của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
31/12/2023
Bài thơ "Ông phỗng đá" của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm trào phúng, mang tính châm biếm và hài hước. Bài thơ này phản ánh sự vô ích và lạnh lùng của một người đứng đắn nhưng không có ích lợi cho xã hội.
Nội dung của bài thơ tập trung vào ông phỗng đá, một người được miêu tả như đá và đồng cỏ, không có cảm xúc và không biết đồng cảm với những khó khăn của người khác. Tác giả sử dụng hình ảnh này để chỉ trích một cách trực tiếp sự lạnh lùng và thờ ơ của ông phỗng đá.
Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng biện pháp trào phúng để gây tiếng cười và phê phán. Từ ngữ hài hước và châm biếm được sử dụng để tạo ra hiệu ứng trào phúng. Ví dụ, câu thơ "ông đứng làm chi đó hỡi ông?" đã tạo ra sự châm biếm và nhấn mạnh sự vô ích của ông phỗng đá.
Tuy nhiên, để phân tích một tác phẩm văn học một cách đầy đủ và chi tiết, cần xem xét thêm các yếu tố khác như cấu trúc, ngôn ngữ, ý nghĩa sâu xa của từng câu thơ. Do đó, việc phân tích một bài thơ trào phúng cần được triển khai theo hướng đó.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
8 giờ trước
Top thành viên trả lời