24/01/2024
24/01/2024
Nguyễn Du xưa đã từ giã cõi đời không một lời trăn trối, mang theo cả một tâm sự bi kịch, u uất không giải tỏa cùng ai. Những ai đã sống sâu sắc với cuộc đời hẳn thấu hiểu lắm tâm sự của Nguyễn Du – một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Tố Như ơi! Xin người hãy “ngậm cười nơi chín suốt” vì “cả cuộc đời này hiểu Nguyễn Du” vì có biết bao nhiêu người như Huy Cận, Bùi Kỷ, Tế Hanh, Chế Lan Viên, … và đặc biệt Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ Người những uất hận kia. Nguyễn Du đã bắc nhịp cầu tri âm đến với những tâm sự của Tố Như trong “Độc Tiểu Thanh ký” đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương như nhận định ''Văn chương bắc chiếc cầu kỳ diệu để những tâm hồn đông điệu tìm đến sự cảm thông, thấu hiểu, sẻ chia. Phải chăng, tiếng nói tri âm là khát vọng muôn đời của văn chương xưa nay?''
Tri âm được hiểu là sự đồng điệu, thấu cảm. Sự tri âm giữa người đọc và người viết trước hết được bắt nguồn từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút là để giải bày lòng mình. Nhà thơ mang tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác – tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : “nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình”.
Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, cách Tố Như ba trăm năm nhưng đồng thời Tiểu Thanh cũng là một nhà thơ. Sống cô đơn, vò võ một mình trong sự ghen tuông cay nhiệt của người vợ cả, sự thiếu đồng cảm của chính người chồng, Tiểu Thanh đã tìm đến thơ để ký thác tâm tình, để tìm đến một tri âm vô hình cho khuây khoả nỗi cô đơn. Thế mà thói đời cay nghiệt, khi nàng chết, những vần thơ của nàng cũng phải giã từ cõi đời trong ngọn lửa ghen tuông, đố kỵ. Những câu thơ xót lại của nàng khiến Tố Như rung động. Một trái tim lúc nào cũng căng lên như dây đàn nối đất với trời và nỗi đau của con người có thể làm sợi giây ấy rung lên bần bật. Dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại viết hay, xúc động về Tiểu Thanh như vậy. Còn Tố Hữu trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước nhất là trong những ngày kỷ niệm ngày kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, đã xúc động viết lên “Kính gửi cụ Nguyễn Du”. Tố hữu đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du và hết lời ca ngợi giá trị của thơ ca Tố Như. Như thế hai bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” và ” Kính gửi cụ Nguyễn Du” đều thể hiện tiếng nói tri âm giữa Nguyễn Du, Tố Hữu – người đọc đồng thời cũng là những nhà thơ với Tiểu Thanh, Nguyễn Du – những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Sự trùng hợp tuyệt đẹp này còn góp phần khẳng đinh giá trị nhân đạo sâu sắc, mênh mông của dân tộc và văn học Việt nam. Bở lẽ Tiểu Thanh, Nguyễn Du là ai nếu như không phải là những người tài hoa và bạc mệnh?
Trước hết, Độc Tiểu Thanh kí là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, một lòng đau đi tìm một hồn đau, cất lên trong một không gian đa chiều của tiếng khóc – tiếng khóc là biểu tượng cho sự đồng cảm sâu sắc giữa hai con người khác thời đại và dân tộc. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn cách hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhòa biên giới địa lí, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau. Khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khóc cho người, khóc cho một thiên tài kì nữ. Nguyễn Du coi mình là người cùng hội cùng thuyền với người xưa, khóc cho Tiểu Thanh để rồi khóc cho chính mình.
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ nói về quy luật nghiệt ngã của cuộc đời. Dòng đời lạnh lùng chảy trôi, cuốn theo bao con người, bao số phận, tàn phá bao cảnh sắc. Hồ Tây xưa đẹp đẽ, rực rỡ là thế, giờ chỉ còn là một đống đất hoang lạnh, vắng vẻ, tiêu điều. Một sự biết đổi thật ghê gớm! Tận nghĩa là biết đổi hết, sạch trơn. Cảnh xưa đã không còn. Câu thơ nghe ngậm ngùi, thoáng gợi sự đời dâu bể “thương hải biết vi tang điền” hay xót xa nỗi niềm “thế gian biết đổi vũng nên đồi” trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là quy luật của tự nhiên, sao ta không khỏi day dứt? Bở lẽ cũng với sự đổi thay ấy, là sự ra đi của kiếp người, đời người. Tiểu Thanh nàng hỡi, sự hiện diện của nàng trên cõi đời này còn gì đâu nếu không còn những vần thơ sót lại. Nhưng thay những vần thơ ấy – tấc lòng của nàng đã đến được với bế bờ tri âm – ấy chính là Nguyễn Du.
Cả cuộc đời Tiểu Thanh hiện lên qua hai chữ: chi phấn và văn chương. Nói đến son phấn là nói đến tài sắc, nói đến văn chương là nói đến tằng năng. Người là người tài năng, nhan sắc trọn vẹn, thế sao cuộc đời nàng lại đau khổ dường vậy? Nhà thơ đã thổi hồn vào son phấn, văn chương để chúng cất lên tiếng nói bi phẫn, xót xa. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết còn văn chương không có mệnh mà còn bị đốt bỏ. Hỡi cuộc đời, son phấn, văn chương để cất lên tiếng nói bi thương thấu thiết ấy?
Bài Độc Tiểu Thanh kí của Tố Như viết theo thể đường luật cô đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Nếu “Độc Tiểu Thanh kí” là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, sự đồng cảm sâu sắc giữa hai người khác thời đại và dân tộc, thì “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là tiếng lòng tri âm của những con người cùng nguồn cội, cùng dân tộc. Hai trăm năm sau Nguyễn Du , Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc hướng về quá khứ cha ông với niềm xót xa, thương cảm. Biết bao nhà thơ khác đồng cảm với Nguyễn Du nhưng ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy thật sâu sắc, mênh mông.
Nếu như Nguyễn Du chủ yếu tri âm với cuộc đời Tiểu Thanh thì Tố Hữu còn tri âm với cả thế giới nhân vật của tác phẩm Nguyễn Du. Tố Hữu không chỉ thương Nguyễn Du mà còn thương nhân vật mà Nguyễn Du thương. Không chỉ hiểu bi kịch của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ, cảm thông với bi kịch tình đời của thi hào. Tố Hữu không chỉ tri âm với tư cách là một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ mà còn tri âm trên tinh thần trân trọng truyền thống, di sản của cha ông. Hiện thực thời đại mới cho phép tác giả đánh giá đầy đủ, sâu rộng và chính xác hơn sự nghiệp sáng tác của một thiên tài. Như vậy, vấn đề tri âm còn là vấn đề thời đại với thời đại, lịch sử với lịch sử.
Tấm lòng tri âm của Tố Hữu với Nguyễn Du không chỉ là sự đồng cảm, sẻ chia mà còn là sự trân trọng, biết ơn, lòng cảm phục, ca ngợi. (“Tiếng thơ ai động đất trời … Tiếng thương như tiếng mẹ ru tháng ngày”). Tố Hữu đánh giá rất cao giá trị sáng tác Nguyễn Du, đặc biệt nhà thơ đã khẳng định sự trường tồn bất diệt của tác phẩm “Truyện Kiều” trong lịch sử văn học dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, sẽ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lý giải nỗi đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội vạn ác thời nguyễn Du gây nên. Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiều để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng say mê.
Chính sự khác nhau về tiếng nói tri âm ấy đã chuyển hoá thành hình thức nghệ thuật khác nhau. Bài “Độc Tiểu Thanh ký” của Tố Như viết theo thể thơ Đường luật, cô đúc, hàm xúc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, dấu nặng tạo cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Còn Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiểu để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng, say mê.
Như vậy, tiêng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu với nghệ sĩ phải sáng tác từ những cảm xúc chân thành nhất, da diết nhất. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mỹ của tác giả, để chia sẻ cảm thông với tác giả. Mỗi người hãy rung lên khúc đàn Bá Nha như Tử kì để văn chương mãi tươi đẹp, kỳ diệu.
24/01/2024
Đrun Đztrước hết được bắt nguồn từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút là để giải bày lòng mình. Nhà thơ mang tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác – tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : “nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình”.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời